Chưa bao giờ, trong những cuộc trò chuyện,
tôi hỏi Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành những câu hỏi thẳng thắn, sòng phẳng, thậm
chí đôi khi có thể khá khó chịu về cha ông - cố Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn như
trong buổi trò chuyện này. Và ông đã đáp lại bằng sự thẳng thắn thậm chí còn vượt
cả sự chờ đợi của tôi.
LTS: Với 79
năm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động Cách mạng, 26 năm liên tục trên cương vị Bí
thư thứ Nhất và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng
bí thư Lê Duẩn là nhà lãnh đạo chính trị kiên định, nhà chiến lược xuất sắc,
nhà tổ chức tài năng, nhà tư tưởng chính trị lớn của Cách mạng Việt Nam.
Hôm nay là kỷ
niệm 30 năm ngày mất của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn (ngày 10/7/1986 - 10/7/2016),
Báo điện tử CAND xin đăng lại bài trò chuyện với TS Lê Kiên Thành, con trai cố
Tổng bí thư Lê Duẩn. Bài đăng trên Báo ANTG cuối tháng 4-2015.
****
40 năm sau
ngày đất nước thống nhất, có lẽ đây là thời điểm hợp lý hơn bao giờ hết để hiểu
thêm một phần về cố TBT Lê Duẩn và những đóng góp của ông trong cuộc đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...
- Phóng viên: Thời điểm năm 1957, khi Bác Hồ
mời ông Lê Duẩn từ miền Nam ra miền Bắc và được Trung ương bố trí làm Tổng Bí
thư, đã có rất nhiều người bất ngờ. Khi đó, ai cũng đinh ninh rằng một số đồng
chí có uy tín cao ở miền Bắc và là những học trò xuất sắc của Bác sẽ được chọn
vào vị trí đó. Nhưng cuối cùng, cha ông lại là người được chọn. Có bao giờ, lúc
còn sống, cha ông kể cho ông nghe về lý do của quyết định ấy?
Tiến sĩ Lê
Kiên Thành: Đối với cha tôi, đó mãi mãi
là một câu hỏi cho đến tận cuối đời. Cha tôi từng tâm sự với tôi rằng, thật ra cho đến trước thời điểm ông
ra miền Bắc năm 1957, ông là một trong những người ít gần Bác Hồ nhất. Cha tôi
hoạt động cách mạng suốt từ Bắc vào Nam. Nhưng ông chưa từng gặp Bác trước đó
cho đến lần gặp đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cha tôi trở về
từ nhà tù Côn Đảo. Ông ra Bắc gặp Bác Hồ ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, ông là
người “cãi” lại Bác trong nhiều chuyện.
Cha tôi kể
lúc đó Bác Hồ đã nhìn ông với ánh mắt đầy ngạc nhiên, bởi xung quanh hầu như mọi
người đều nhất mực nghe Bác. Chính cha tôi cũng không biết, buổi gặp đầu tiên
đó, ấn tượng của Bác dành cho ông là thế nào. Nhưng với tính cách của cha tôi,
ông không bao giờ ngại những điều đó.
Năm 1948, Bác
Hồ và Trung ương cử ông Lê Đức Thọ vào miền Nam chấn chỉnh Xứ ủy Nam Kỳ vì đã
có những hoạt động khác với đường lối chung của Trung ương Đảng chỉ thị. Và có
thể sẽ bố trí ông Lê Đức Thọ làm Bí thư Xứ ủy.
Suốt 5 ngày đầu
tiên khi ông Lê Đức Thọ thay Trung ương phê bình Xứ ủy, nhiều người trong Xứ ủy
xôn xao bàn tán, nhưng cha tôi ngồi im ghi chép tất cả ý kiến của Trung ương.
Hai ngày cuối cùng, ông mới nói. Ông giải thích tất cả những việc Xứ ủy làm, tại
sao làm, kết quả như thế nào. Sau hai ngày đó, ông Lê Đức Thọ đứng lên đánh giá
ghi nhận việc làm của Xứ ủy Nam Kỳ và nói một câu cuối cùng trước khi kết thúc
hội nghị: “Tôi sẽ xin phép Bác Hồ ở lại làm phó cho anh Ba”.
Tôi không biết
bằng cách nào, cha tôi, sau hai ngày nói chuyện, đã thuyết phục được ông Sáu
Búa (tên gọi thân mật của ông Lê Đức Thọ) - một người nổi tiếng cứng rắn có thể
thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của mình.
Năm 1955, khi
bộ đội và cán bộ cách mạng tập kết ra Bắc, cha tôi xin Bác ở lại miền Nam. Ngày
chia tay, cha tôi nói với ông Lê Đức Thọ một câu: “Anh ra báo cáo với Bác,
không phải hai năm, mà có thể phải hai mươi năm nữa, tôi mới được ra gặp Bác”.
Ngay thời điểm mà nhiều người ở cả miền Nam và miền Bắc vui mừng về Hiệp định
Genève, chúng ta đã biết, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, không bao giờ chỉ
là hai năm. Cha tôi nói ông đã khóc rất nhiều khi nhìn những gia đình miền Nam
trước khi ra Bắc tập kết đã giơ hai ngón tay - hẹn 2 năm sau gặp lại...
Nhưng sau khi
ông Lê Đức Thọ ra, miền Bắc vướng phải sai lầm trong cải cách ruộng đất. TBT
Trường Chinh xin từ chức. Lúc đó Trung ương đang tìm người thay thế ông Trường
Chinh. Như lời ông Lê Đức Thọ sau này kể lại thì ông chính là người đề cử cha
tôi với Bác Hồ. Ông Lê Đức Thọ nói: “Thời điểm này, với những nhiệm vụ cách mạng
được đặt ra, không ai xứng đáng hơn là anh Ba”. Có lẽ, việc cha tôi là người gắn
bó hơn cả, hiểu cách mạng miền Nam hơn cả, là một trong những nguyên nhân ông
được Bác gọi ra Bắc.
Thế nhưng lúc
đó cha tôi lại nghĩ rất khác. Ông nghĩ rằng, nếu nói ông là người hiểu miền
Nam, thì tại sao không để ông ở lại? Mà ông thì vô cùng muốn ở lại sát cánh cùng
đồng bào miền Nam. Cha tôi từng kể, thời điểm đó, ra miền Bắc là điều ông không
muốn, vì cách mạng miền Nam còn bao việc bề bộn, số phận của cách mạng miền Nam
có nguy cơ đi đến hồi chấm hết, khi mà Mỹ - Ngụy đi đến từng thôn ấp tìm diệt
những cán bộ cách mạng còn ở lại, trong khi chúng ta, vì tôn trọng cam kết Hiệp
định, đã không thể vũ trang chống lại. Nhưng dù ông tha thiết xin ở lại, Bác Hồ
lại vô cùng cương quyết. Bác đã đánh 3 bức điện vào miền Nam yêu cầu cha tôi
ra.
Sau này, cha
tôi nhận ra rằng, việc ông được điều ra là đúng. Bởi vì ra là đấu tranh để đi đến
thống nhất về đường lối cách mạng miền Nam.
- Liệu khi ra miền Bắc, cha ông có phải đối
mặt với khó khăn?
Thời điểm cha
tôi ra, ảnh hưởng của cải cách ruộng đất đến uy tín của Đảng vẫn còn nặng nề.
Bác Hồ đề nghị cha tôi là Bí thư thứ nhất, kiêm chức vụ khác. Nhưng cha tôi
nói: “Thưa Bác, tôi đề nghị Bác bố trí các đồng chí khác cùng gánh vác”. Sau
khi tính toán kỹ, Bác cùng Trung ương sắp xếp ông Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc
hội, ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng.
Trong sâu thẳm,
cha tôi nghĩ rằng, sẽ là không công bằng với ông Trường Chinh khi một mình ông
phải chịu trách nhiệm toàn bộ cho những sai lầm cải cách ruộng đất, nhất là với
những công lao, những cống hiến của ông cho cách mạng - người vào sống ra chết
với cách mạng Việt Nam suốt từ những năm 1930 đến giờ.
Đề nghị đó của
cha tôi cùng những quyết định sáng suốt của Bác đã khiến những nguy cơ xung đột
trong lãnh đạo Đảng, như một số người lo ngại không xảy ra. Sự thay đổi lớn về
vị trí lãnh đạo này đã không tạo ra những mâu thuẫn, mà ngược lại đã khiến
trong những người đứng đầu của Đảng có sự đoàn kết cao, trừ những khác biệt
trong quan điểm về đường lối cách mạng sau này về chủ trương thống nhất đất nước
bằng con đường đấu tranh vũ trang hay không?
- Nói về ảnh hưởng của TBT Lê Duẩn với đường
lối cách mạng miền Nam, Đại tướng Lê Đức Anh đã nói, Nghị quyết 15 được xây dựng
trên nền tảng “Đề cương Cách mạng miền Nam” do cha ông soạn thảo. Có phải từ thời
điểm đó, những quan điểm khác nhau về đường lối giải phóng miền Nam của TBT Lê
Duẩn và một vài người khác đã bắt đầu thể hiện?
Tôi được biết
Nghị quyết 15 được khởi thảo từ khi cha tôi còn chưa ra Bắc. Ông Hoàng Tùng
cùng ông Võ Nguyên Giáp là người khởi thảo bản nghị quyết đó. Nhưng nội dung
Nghị quyết 15 cuối cùng chỉ được hoàn thành sau hai năm, với không biết bao
nhiêu cuộc họp và tranh luận để đi đến thống nhất.
Nội dung quan
trọng của bản Nghị quyết được đưa ra là vấn đề đường lối giải phóng miền Nam.
Trong quá trình tranh luận, một bên ủng hộ thuyết hòa bình, cho rằng miền Bắc tự
mạnh lên thì sẽ là tấm gương đầy thuyết phục với miền Nam, và miền Nam tất yếu
sẽ đi theo chúng ta và cuối cùng đi đến thống nhất. Cha tôi thì ủng hộ quan điểm
về con đường vũ trang cách mạng và cho đó là con đường tất yếu, không thể tránh
khỏi.
- Và dường như đó là tư tưởng xuyên suốt của
TBT Lê Duẩn trong giai đoạn chống Mỹ. Điều gì đã khiến ông cho rằng, đó là con
đường tất yếu phải đi để giải phóng miền Nam?
Cha tôi và
nhiều người cho rằng, với một nước Mỹ mạnh như thế, một nước Mỹ chưa từng thua
trong bất cứ cuộc chiến nào trước đó, nhất là một nước Mỹ sau Chiến tranh thế
giới thứ 2, thì không có một lý do gì Mỹ từ bỏ Việt Nam và để cho Việt Nam thống
nhất trong hòa bình. Mà Mỹ đánh Việt Nam, là để đánh vào thành trì của Chủ
nghĩa xã hội, chứ không riêng gì Việt Nam.
Những khác biệt
về quan điểm đấu tranh đã khiến Nghị quyết 15 chỉ được thông qua sau 2 năm trời.
Tôi nghe nói, chưa từng có một hội nghị Trung ương nào dài đến như vậy. Có những Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ ra miền Bắc,
nghỉ lại tại chính nhà tôi, chỉ để hàng tháng chờ đợi kết quả của hội nghị đó.
Có lần cha
tôi kể, khi đó những người bạn lớn của Việt Nam đã cảnh báo chúng ta: Khi mà
các đồng chí chưa đủ lực lượng, các đồng chí tiến hành cuộc chiến tranh miền Nam,
không những không giải phóng miền Nam được mà còn có khả năng mất luôn cả miền
Bắc. Các đồng chí có biết Thế chiến 3 có thể bắt đầu từ chính cuộc chiến này?
Nghĩa là áp lực từ các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam lúc đó
là vô cùng khủng khiếp. Mà chúng ta đương nhiên rất khó chiến đấu với một nước
mạnh như nước Mỹ mà không có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Khi mà trong
nội bộ Đảng đã thống nhất được - sau 2 năm về đường lối giải phóng miền Nam,
thì Bác Hồ giao cho cha tôi sang thuyết phục những người bạn lớn, nhưng họ
không đồng ý việc ta sử dụng con đường vũ trang cách mạng, vì họ đều nghĩ rằng
nước Mỹ là một thế lực khủng khiếp mà Việt Nam không thể cản được.
Có một lần
cha tôi đi sang và một đồng chí lãnh đạo của nước bạn đã nói với cha tôi trong
hội đàm: “Các đồng chí sẽ không bao giờ thắng được Mỹ. Mỹ mạnh đến mức chúng
tôi còn phải ngại thì Việt Nam không có cách gì thắng Mỹ”. Lần đầu tiên mọi người
chứng kiến cha tôi đập bàn, nói rất gay gắt với đồng chí lãnh đạo nước bạn. Cha
tôi kể lại câu chuyện vui rằng, sau khi miền Nam giải phóng, cha tôi gặp lại
ông ta, mặt ông ta buồn rười rượi, bởi ông ấy nhớ tất cả lời ông đã nói với cha
tôi trước kia.
Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, thế giới đã nhìn thấy hình ảnh những con người nhỏ bé của
một dân tộc nhỏ bé, nhưng yêu tha thiết đất nước mình, chống lại một nước Mỹ
hùng cường. Nên khi đó, thế giới dấy lên một sự ủng hộ với Việt Nam. Họ cho rằng
người nào ủng hộ Việt Nam chiến đấu thì người ấy là người tốt. Đó là một thứ
tình cảm rất khó cưỡng lại. Và chính việc chúng ta làm đã ngày càng giúp nước Bạn
lớn nhận ra rằng Việt Nam có khả năng chiến thắng, hoặc ít nhất là khả năng cầm
cự lâu dài. Và khi Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, thì chính họ, những người bạn lớn của
chúng ta rất có lợi.
Cha tôi, với
sự chỉ đạo của Bác Hồ đã bằng mọi cách, để tiến dần từng bước thuyết phục để
các nước này phải ủng hộ mình.
- Con đường
mà cha ông và Đảng ta tin tưởng và lựa chọn là con đường mà như chúng ta đã biết,
đã giúp đất nước thống nhất. Nhưng chúng ta phải hy sinh nhiều xương máu. Tôi từng
nghe những ý kiến cho rằng sự cứng rắn của Trung ương mà đứng đầu là Bí thư thứ
nhất đã khiến cho chúng ta phải trả giá quá nhiều cho chiến thắng đó. Tướng
Westmoreland của Mỹ cũng từng nói về điều đó.
- Những bài học
và kinh nghiệm về chiến thắng giải phóng miền Nam đã được chúng ta tổng kết nhiều
rồi, tôi có nói cũng không bao giờ đủ. Nhưng về vấn đề này, tôi nghĩ như hai miền
Nam - Bắc Triều Tiên bây giờ chưa thống nhất, thì đến sau này thống nhất, điều
gì sẽ xảy ra với họ - tôi không hình dung ra được! Liệu nó có bi thương hơn sự
chết chóc mà chúng ta từng phải gánh chịu hay không, khi mà bóng ma của một cuộc
chiến tranh nguyên tử luôn đe dọa họ? Chúng ta đều không thể nói trước được!
Tôi cũng thường
nghĩ về việc nếu đất nước mình không lựa chọn con đường đấu tranh vũ trang, nếu
chúng ta chưa thống nhất, thì điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì? Điều đó
chúng ta cũng không thể mường tượng được. Nhưng tôi tin rằng, đất nước Việt Nam
thống nhất hôm nay là giấc mơ của rất nhiều người Triều Tiên, nhất là những người
phải chịu cảnh gia đình ly tán về sự chia cắt đó.
Một lần tôi
sang Hàn Quốc, một ông Đại biểu quốc hội Hàn Quốc đã nói với tôi thế này: “Về
kinh tế, các ông có thể thua chúng tôi 30 năm, nhưng về thống nhất đất nước,
chúng tôi cách các ông không biết bao nhiêu năm!”.
Chắc chắn những
người lính đã nằm lại trên chiến trường miền Nam sẽ cảm thấy sự hi sinh của
mình cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cho một nền tảng để chúng ta dựng
xây tương lai là xứng đáng và tự hào. Nếu không có những sự hi sinh đó, có thể
trong tương lai sẽ có những sự hi sinh gấp vạn lần như vậy.
Giống như ta không thể nói vua Quang Trung đã hi
sinh bao nhiêu người để giành lại đất nước? Và đất nước này có đáng để giành lại
hay không?
Giống như ta
không thể thắc mắc tại sao các vị Vua nhà Trần phải lãnh đạo nhân dân 3 lần chống
lại vó ngựa của quân Nguyên Mông mà không đầu hàng để bảo vệ tính mạng của người
dân?
Nói thế là vô
cùng vô nghĩa!
Khi phải chống
lại một nước Mỹ mạnh hơn chúng ta cả trăm lần, sự hi sinh là không thể tránh khỏi.
Chính người Mỹ cũng từng nói, họ nghĩ đáng lẽ ra người Việt Nam sẽ phải đổ máu
nhiều hơn thế cho độc lập này, khi mà bom đạn Mỹ đã đổ vào miền Nam trong mấy
chục năm chiến tranh như thế.
Cái suy nghĩ
của nhiều người bây giờ cho rằng sự hi sinh của những người lính cho độc lập
dân tộc, là một sự hi sinh không xứng đáng - đó là một sự phản bội, một sự vô
ơn với người đã khuất.
Tôi tin Tướng
Westmoreland không hiểu hết nước Mỹ. Nếu đặt nước Mỹ trong hoàn cảnh bị xâm lược
như chúng ta, ví dụ như người ngoài hành tinh xuất hiện và đe dọa họ chẳng hạn,
thì trong hoàn cảnh đó, tôi tin, sẽ có không ít người Mỹ xả thân để bảo vệ đất
nước họ. Mà, để đạt được mục đích là chiến thắng, nước Mỹ đã từng ném hai quả
bom nguyên tử xuống nước Nhật, nên Westmoreland càng không có lý do để nói câu
này.
- Ông có biết có quyết định của TBT Lê Duẩn
đến giờ vẫn gây tranh cãi. Như cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 chẳng hạn...?
Nói về Tết Mậu
Thân năm 1968, chúng ta sẽ phải nhớ đó là thời điểm Westmoreland đề nghị Mỹ
tăng gấp đôi số lượng quân Mỹ tại Việt Nam lên 1 triệu quân và đưa chiến tranh
ra miền Bắc. Khi đó Chính phủ Mỹ đang đứng giữa hai lựa chọn hoặc là tăng quân
viện trợ, tiếp tục cuộc chiến, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, hoặc dần rút khỏi
chiến tranh Việt Nam.
Nếu chiến
tranh mở rộng ra miền Bắc, nếu ta mất Hải Phòng, mất Quảng Bình, nghĩa là mất tất
cả những con đường chi viện cho miền Nam thì đó sẽ là điều vô cùng tồi tệ. Và
cú đánh Tết Mậu Thân - một trận chiến tổng lực, đánh vào cả Đại sứ quán Mỹ và
Dinh Độc Lập đã làm người Mỹ choáng váng. Cú đánh đó đã khiến người Mỹ quyết định
ngồi vào bàn đàm phán và tính đến phương án rút quân khỏi Việt Nam. Tức là cuộc
chiến đã bẻ ngoặt sang một hướng khác hoàn toàn có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Chúng ta đã
phải trả giá không ít cho bước ngoặt ấy. Nhưng sẽ phải đặt một vấn đề như thế
này: Chúng ta sẽ trả giá cho đợt tổng tấn công đó, hay chúng ta sẽ trả giá cho
hai mươi năm nữa, hoặc thậm chí lâu hơn mới giải phóng miền Nam? Có gì đảm bảo
sự trả giá lâu dài đó sẽ bớt đắt đỏ hơn?
Khi tôi ngồi
với ông Võ Văn Kiệt trong một cuộc trò chuyện thân mật, ông nói: “Chú nói thật
với mày, chú thấy đánh Mậu Thân là xác đáng, là phải đánh bằng được. Chú chỉ
không hiểu tại sao lại đánh đợt 2, đợt 3, vì khi đó yếu tố bất ngờ, bí mật
không còn”. Thú thật tôi đã rất hoang mang khi nghe điều đó. Nhưng tình cờ, khi
xem bộ phim tài liệu về ông Phạm Xuân Ẩn, tôi đã biết được một chi tiết. Ngay
sau đợt tấn công đầu tiên, ông Ẩn chuyển một tài liệu mật ra Hà Nội mà ông Ẩn
cho rằng vô cùng quan trọng, đó là nội dung bức điện của Johnson gửi
Westmoreland, lệnh cho bằng mọi giá không thể để xảy ra chuyện tương tự. Chính
vì nắm được bức điện đó, mà chúng ta phải có cuộc tấn công đợt 2, đợt 3. Đó là
lý do người Mỹ đồng ý ngồi vào bàn đàm phán. Việc biết được tài liệu này khiến
tôi càng tự tin hơn vào những quyết định của Trung ương và cha tôi trong Tết Mậu
Thân. Và càng hiểu điều đó, tôi càng trân trọng những người lính đã hi sinh vì
đại cục.
- Và sau 20 năm trời lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Mỹ, với bao nhiêu mất mát đó, cha ông đã đón nhận tin thống nhất như thế
nào?
Lúc 11 giờ 30
phút, khi nhận được điện thoại báo tin từ Bộ Tổng Tham mưu, cha tôi không nhảy
cẫng lên vui mừng như nhiều người khác. Nhưng khi đó ông đã gọi chú Phú - người
cần vụ lâu năm của ông châm cho ông một điếu thuốc. Đó là điếu thuốc đầu tiên
ông hút sau 20 năm ra miền Bắc. Đó là lần đầu tiên sau 20 năm, ông cho phép
mình làm một điều rất cá nhân, một điều có hại đến sức khỏe - chỉ hút một điếu
thuốc mà thôi!
Lan Hương (thực hiện)
Nguồn: cand.com.vn
Nguồn: cand.com.vn
No comments:
Post a Comment