Nguồn: tiasang.com.vn
Lịch
sử Việt Nam nếu nhìn từ thân phận đàn bà thì đó là những tiếng nói vô thanh, tức
là không có (hoặc rất ít) giọng nói cất lên từ phía phụ nữ, mà chỉ là những tiếng
lồng đa thanh của những kẻ đàn ông cho những khuôn mặt đàn bà đã phôi pha theo
dòng chảy thời gian. Hình tượng Thái hậu Dương Vân Nga trong lịch sử là một
trong những điển hình cho điều đó. Trong khi Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là một
biểu tượng đa năng, như là câu chuyện của những đại tự sự với những xu hướng
chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như là một hình ảnh phụ bị cuốn
theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông. Trong khi, các sử gia Nho giáo
chỉ coi Dương hậu như là một bài học cho sự vi phạm đạo vợ chồng, phê phán để
làm gương cho các bậc hoàng đế và vương hậu đời sau; thì các nghiên cứu trong
thế kỷ 20 lại lấy bà như là một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam biết hy
sinh hạnh phúc cá nhân để giữ gìn sự thống nhất và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
SỬ LIỆU VỀ DƯƠNG VÂN NGA
Dương hậu hay
Dương Vân Nga, được biết đến nhiều vì liên quan một lúc đến cả ba họ Ngô- Đinh-
Lê. Cho đến nay, người ta vẫn không hết tranh luận bà là một người hai hay người.
Nhưng dù là một hay hai người thì đây vẫn gương mặt phụ nữ kỳ lạ nhất của thế kỷ
X, và cũng là một/ hai người phụ nữ đáng nhớ nhất trong lịch sử Việt Nam trung
đại. Nếu bà là một người, thì bà vừa là cháu của một ông Tiết độ sứ (Dương Đình
Nghệ) và một ông vua (Bình Vương), là vợ của 3 vị vua (Ngô Xương Văn, Đinh Bộ
Lĩnh, Lê Hoàn), là mẹ của 2 ông vua nữa (An Vương Ngô Nhật Khánh, và Vệ Vương
Đinh Toàn), cuối cùng bà còn là mẹ vợ của hoàng đế Lý Công Uẩn (như truyền thuyết).
Nếu quả như thế thật thì sử liệu nào cho phép suy luận và vẽ ra một nhân vật tầm
cỡ - thú vị đến như vậy?
Sử liệu 1:
ghi chép sự kiện tháng 10 âm năm 979, sau khi Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị ám
sát. “Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng Thập đạo Tướng
quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế,
tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế
về táng ở sơn lăng Trường Yên”[1].
Sử liệu 2:
chép ở mục Phế Đế: “Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công
việc như Chu Công, tự xưng là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại
giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng
nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn, nhưng
không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu nghe tin,
lo sợ bảo Hoàn rằng: “Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước nhà ta. Vua
còn nhỏ yếu chưa kham nổi nhiều nạn, các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về
sau”. Hoàn nói: “Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế
nào, đều phải đảm đương trách nhiệm”.
Sử liệu 3:
Chép sự kiện cuối năm 979 về Ngô Nhật Khánh: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền
quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa
biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm,
Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm
thoát trở về nước. Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng
là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên,
lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo
sinh biến, lại đem công chúa gả cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn.
Nhật Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem
cả vợ chạy sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội
rằng: “Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của
cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta”. Nói
xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.”[2]
Sử liệu 4:
tháng 7 âm năm 980, nhà Tống nghe nói nhà Đinh có biến, bèn sai Hầu Nhân Bảo
sang đánh Đại Cồ Việt. “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền
làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở
Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm Đại tướng quân. Khi [triều đình] đang bàn kế
hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào
Nội phủ, nói với mọi người rằng: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là
phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết
sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ?
Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì
hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế!”. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy
phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ
đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [980], giáng
phong vua làm Vệ Vương.”[3]
Sử liệu 5:
Sau chiến thắng Nam Hán, năm 980, Lê Hoàn được bề tôi tôn xưng là Minh Càn Ứng
Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế. Năm 981, “Lập Hoàng thái hậu
nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ của Tiên Hoàng, mẹ
đẻ của Vệ Vương Toàn. Khi vua lấy được nước, đem vào cung, đến đây lập làm
Hoàng hậu, cùng với Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu,
Trịnh Quấc Hoàng Hậu, Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu (về sau, tục dân lập đền thờ,
tô tượng hai vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc
sơ [đầu thời Lê] vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ)”[4].
Các sử liệu
trên trình bày rõ một hiện trường phong phú về bà trong bối cảnh chính trị cung
đình thế kỷ X. Chúng ta thấy, lần đầu tiên trong lịch sử thế kỷ X, một người phụ
nữ đã lên tiếng và được ghi vào chính sử, hoặc ít ra lần đầu tiên các sử quan để
cho phái yếu được phát ngôn.
Dương Thái Hậu
bảo Hoàn mà cũng là bảo cả những người theo phe mình: vua còn nhỏ dại, các ông
cứ liệu tính chớ để di họa. Hoàn tự đáp với tư cách Phó vương, đương nhiên đó
là trách nhiệm của mình. Một kịch bản mà có lẽ cả hai người đã tính toán rất kĩ
trước khi ra chầu trước bách quan. Rồi trước nguy cơ chiến tranh với nhà Tống,
trong thế “trứng đặt đầu đẳng”, lần thứ hai, người đàn bà quyền lực lên tiếng.
Toàn thư ghi, Thái Hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đánh giặc, chọn được Phạm Cự Lạng
ở Nam Sách Giang[5] làm Đại tướng quân. Cự Lạng về Hoa Lư chuẩn bị kế hoạch chống
giặc. Nhưng trước tiên là phải ổn định triều chính. Thái Hậu và Lê Hoàn chọn Phạm
Cự Lạng làm Đại Tướng Quân. Đại Tướng họ Phạm liền tấu thẳng giữa triều đình về
việc tôn Hoàn làm Hoàng Đế. Ba lý do được đưa ra: Hoàng Đế thì trẻ mỏ; giặc Tống
đã đến gần; xuất quận ra trận, nếu thắng thì ai biết cho mà ghi công. Hai ý cuối
cùng đã đánh trúng tâm lý của tất cả những người đang ăn lộc triều đình. Điểm
tinh tế ở chỗ, sử mô tả Đại Tướng Quân Phạm Cự Lạng vào triều lại “mặc nguyên
giáp trụ đi thẳng vào Nội phủ” để bàn kế hoạch tôn Hoàn làm Thiên tử trước khi
đánh giặc. Lạng nói xong thì quân sĩ đều hô vạn tuế. Vậy thì hiển nhiên, việc
triều đình Hoa Lư đồng ý Lê Hoàn lên ngôi còn vì phải chịu dưới sức ép của lực
lượng quân sự. Vở kịch diễn ra đúng như dự toán của đạo diễn Dương Thái Hậu,
lúc này bà mới sai người mang áo long cổn đến khoác lên mình Lê Hoàn, mời ông
lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, và giáng ông con ruột 6 tuổi xuống
làm Vệ Vương.
DƯƠNG HẬU - TỪ TẤM GƯƠNG “TÀY LIẾP” CỦA ĐẠO
ĐỨC NHO GIÁO
Trong suốt
chiều dài lịch sử sau này, chúng ta hãy cùng xem Ngô Hậu - Dương Hậu đã được hiện
lên như thế nào dưới ngòi bút của các sử thần Nho gia.
Về Dương Hậu
thời Đinh- Lê, Ngô Sĩ Liên đã phê bình từ góc độ đạo đức rằng: “Đạo vợ chồng là
đứng đầu nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và
quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông
dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn.
Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất
nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sau?”[6] Ngô Thì Sĩ bàn thêm: “Đại Thắng
Minh là tôn hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành dùng tôn hiệu của vua đã mất,
làm tên hiệu cho Hoàng hậu của mình, không còn kiêng kị gì nữa. Thật là quá quắt”[7].
Ngô Sĩ Liên đã phê bình Dương Hậu và Lê Hoàn từ một bối cảnh thời đại mà Nho
giáo đậm đặc hơn rất nhiều so với 500 năm trước đó. Ông phê phán Thập đạo Tướng
quân lợi dụng chức vụ (ra vào cung cấm) thông dâm với vợ vua cũ và là mẹ vua mới
(lại trong lúc tang gia bối rối, mẹ góa con côi), là không biết đến liêm sỉ, rồi
“dâm dật đến nỗi mất nước”, đó là truyền lại cho con cháu cái thói dâm dật ấy.
Mặc dầu, đây là một lối sử bình của một ông Nho thần dành cho một ông vua Nho
giáo, nhưng ta vẫn thấy, thân phận người phụ nữ họ Dương!
Những phê
phán ấy, từ chính sử, đi vào trong dân gian nhiều đời, với nhiều mức độ khác
nhau. Nó trở thành một diễn ngôn sống động mà các sử thần đời sau, núp bóng quyền
uy của ông vua đương thời, để mắng mỏ hoàng đế vương hậu triều trước như là các
“tấm gương tày liếp” cho việc lỗi đạo vợ chồng, loạn mối nhân luân, đầu têu cho
con cái và bách tính làm chuyện phản loạn. Toàn thư ghi việc thờ cúng ba vị
Đinh Hoàng Đế - Dương Hậu – Lê Hoàng Đế đã tồn tại từ thời Lê sơ[8]. Sử quan
cho rằng, đó là do tục lệ dân gian tự thờ cúng nên mới có sự “ngồi chung” bất
chính như thế! Việc An phủ sứ Lê Thúc Hiển[9] bãi bỏ việc thờ cúng theo kiểu
“dâm từ” cho thấy quyền lực “vương hóa” của triều đình.
Đinh
Tiên Hoàng hiện lên như là một biểu tượng đa năng như là câu chuyện của những đại
tự sự với những xu hướng chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như
là một hình ảnh phụ bị cuốn theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông.
Ở một chiều
hướng ngược lại, đầu thế kỷ 17, triều đình Lê - Trịnh (chính xác là Trịnh Kiểm)
đã sai Quận công Bùi Thời Tung và bộ Công dốc tiền làm lại miếu thờ và tô tượng
ba vị, nhưng tác làm hai đền thờ khác nhau. Bia Tạo tác Thánh tượng tiền triều
Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh (1611) ghi việc tạo 3 tượng thờ ở đền vua
Lê gồm có: Lê triều Đại Hành Hoàng đế, Bảo Quang Hoàng thái hậu và Ngọa triều
Hoàng đế[10]. Bảo Quang Hoàng Thái Hậu có lẽ chính là thụy hiệu/ miếu điều tra
văn hóa từ những năm 1980, mỗi khi đến ngày kị Đinh Tiên Hoàng dân làng có làm
nghi lễ rước tượng, tượng Dương Hậu được rước từ đền thờ vua Lê sang đền thờ
vua Đinh rồi cúng xong lại trả “Bà” về. Nhưng có chi tiết quan trọng nhất của
nghi lễ là lật đít tượng lên đánh mười roi trước khi cho về với ông chồng cũ[11].
Nhân dân trước
nay (trong cuối thế kỷ XX) vẫn coi tượng này là “Dương Vân Nga”. Tượng này có đặc
điểm là tô mặt đỏ (một thủ pháp mới lạ so với các hệ thống tượng vương hậu thời
này), mặt xoay về hướng đền thờ Đinh Tiên Hoàng, hàm ý biểu thị sự hổ thẹn vì
đã thất tiết với chồng cũ[12]. Rõ ràng,
triều đình Lê Trịnh, trong quá trình xây dựng các thần điện cho các vua triều
trước (như tiền lệ cho tính chính thống của triều đại mình), đã tái sử dụng “lưỡng
triều Hoàng hậu” Dương thị để tiếp dục giáo dục xã hội về đạo đức của người phụ
nữ. Cùng một biểu tượng, nhưng mỗi thời có cách xử lý khác nhau. Đầu thế kỷ XV,
ba vị được thờ theo kiểu “táo công” dân gian, để người đời sau giễu nhại, một
bà hai ông ngồi chung một bệ: miếu đông thẹn ngắm duyên bà già (Đông miếu tu
khan lão phụ duyên”[13]. Sau năm 1436, Lê Thúc Hiển coi Dương Hậu không đủ tư
cách ngồi chung với hai ông Hoàng đế vì chuyện mất đức làm vợ, và gạt bà ra khỏi
thần điện của nước Đại Việt. Đến đầu thế kỷ XVII, triều đình lại đưa bà vào thờ
nhưng có “siêu chỉnh” về cách thức tô tượng và hướng thờ. Việc nêu gương thất
tiết không còn chỉ nằm trong chính sử mà lại được đưa vào trong tự điển quốc
gia.
Sách Đại Nam
quốc sử diễn ca ghi:
Nối sau Thiếu Đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rày dọc ngang.
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình[14].
Cuối thế kỷ
19, các huyền thoại đã phủ khắp dân gian, rồi lại tiếp tục đi ngược vào chính sử
và quốc chí. Đại Nam nhất thống chí khi ghi về trấn cũ Vân Sàng thì có giải
thích từ nguyên rằng: “tục truyền là cái giường (sàng) mây nước (vân) giao nhau
vì Dương Hậu (bà phi của Đinh Tiên Hoàng) đặt giường trên sông để đón Lê Hoàn.
Khi vua đến có mây ngũ sắc xuất hiện nên gọi là vân sàng”[15].
... bị
dân gian biếm họa
Trong khi các
bộ sử quan phương và điển lễ triều đình nhấn mạnh về sự bất chính của Dương Hậu
từ góc độ chính trị, thì dân gian lại xoáy thêm vào mặt tính dục của bà hoàng
này. Sách Hoàn Vương ca tích sưu tầm ở đất Hà Nam mô tả vẻ đẹp của Dương Hậu
như sau:
“Môi son rừng rực, mặt hoa rờn rờn
Mắt kia sao mọc cờn cờn
Cổ kia đã trắng lại tròn hân hân”…
Ðồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàng
Suối trong tựa ánh nguyệt tràn
Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây
Chim kề mỏ, bướm xỏ mày
Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm[16]
Các ngữ liệu
văn học vừa nêu trên trình bày một hiện trường hiển minh về quyền lực kiến tạo
tri thức lịch sử của triều đình Nho giáo. Các tri thức lịch sử, và tính chất của
các sự kiện đã hiện rõ chính – ngụy, thông qua các lời bao biếm của các sử
quan, từ đó hệ tư tưởng Nho giáo lan tỏa đến các tầng lớp khác nhau. Những người
biên soạn các tác phẩm văn học có chủ đề lịch sử (từ các nhà Nho vô danh, khuyết
danh, cho đến các ông đồ làng xã, các vị quan lại lịch triều, các vị thân
vương, đại thần), trên một hệ tư tưởng thống nhất về đạo đức, trinh tiết của phụ
nữ, đã tiếp tục lan tỏa quan điểm của mình đến nhiều tầng lớp xã hội thông qua
các tác phẩm văn học Nôm diễn ca lịch sử, các tác phẩm này là để cho phụ nữ (phần
lớn là mù chữ) học thuộc lòng. Dung mạo của Dương Thái Hậu được mô tả với hình ảnh
đầy chất đa tình. Tức là lý giải mối quan hệ bất chính của Dương Hậu có thể xuất
phát từ góc độ sinh lý. Các loại động vật cũng được huy động để mô tả hành động:
chim thì kề mỏ, bướm thì xỏ mày, mây thì ngồi xổm, cá thì lượn thành đàn trên
mây. Rõ ràng ở đây, một tác giả dân gian (vô danh) đã không hề có một ý niệm về
sự tôn kính đối với một vị Hoàng hậu- Hoàng Thái Hậu trong quá khứ đã xa. Ông
(có lẽ vẫn là đàn ông) chỉ nhìn thấy hình tượng một người đàn bà quyền lực với
câu chuyện tình sống động qua lời bình của sử sách.
CHO ĐẾN MỘT DƯƠNG THÁI HẬU - CÓ HUÂN LAO VỚI
QUỐC DÂN
Sang đến đầu
thế kỷ XX, khi hệ hình tư tưởng thay đổi, biểu tượng Dương Thái Hậu đã bắt đầu
có những chuyển biến quan trọng, nhưng không ít trường hợp vẫn bảo lưu nội hàm
Nho giáo xưa cũ. Những tranh luận, đối thoại trực tiếp giữa các tác giả cho thấy
sự chuyển đổi ít nhiều về tư tưởng sử ngay trong tầng lớp trí thức nửa phong kiến
nửa thực dân. Đến nửa sau thế kỷ XX, cùng với phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc, và hệ tư tưởng mới, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức
Nho giáo và khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc
gia”, “dân tộc” và “chủ nghĩa yêu nước”.
Năm 1942, Tạp
chí Tri Tân đã ra riêng một số chuyên đề về Đinh Tiên Hoàng, trong đó có bài của
Song Cối với nhan đề “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương
Thái hậu”, ông mở đầu như sau: “nói đến Dương thị, một vị Hoàng hậu trước đã đẹp
duyên với Đinh Tiên Hoàng Đế, sau lại nối dây cầm sắt với vua Lê Đại Hành, nhiều
người tin trí rằng bà là một gái phụ tình, một nàng dâm phụ; rồi vì thành kiến
đã in sâu hàng nghìn năm nay, người ta vội cho ngay là một vết nhơ trên lịch sử.
Cái án ấy quả có đúng không, công bằng không, ta nay cần phải lập một “tòa án
công luận”, xét lại hồ sơ mà phúc xử mới được...”[17]. Tác giả đã giũ bỏ hoàn
toàn quan niệm về Trung – Trinh, về tiết hạnh, về đạo phu phụ (nhân luân) của
Nho giáo. Đàn bà (dù là Hoàng hậu) thì không nhất thiết phải thủ tiết với một đời
chồng, nhất là khi chồng đã chết. Ông đã tiếp thu các tư tưởng duy vật của
phương Tây để lý giải chuyện nam – nữ cũng chỉ là vấn đề sinh lý tự nhiên[18],
là nhu cầu tối thiểu như cơm ăn nước uống mà “thánh nhân” Nho giáo ngày xưa ai
cũng có. Ông cho rằng nhu cầu tình dục (của đàn bà) cũng là “một quyền tự tồn của
cá nhân”. Như thế, tác giả đã sử dụng “nhân quyền” để lên tiếng bảo vệ cho
Dương Thái Hậu, với tư cách một người phụ nữ cũng có quyền tồn tại như những
người đàn ông (ít nhất về thiên tính). Chẳng những thế, khi so sánh với “tình
trạng hôn nhân của Đinh Tiên Hoàng”, ông cho rằng, đàn ông được đa thê, thế thì
làm sao mà phụ nữ không được quyền tái giá. Ông đòi bình quyền cho nữ giới, và
yêu cầu xã hội phải cải chính danh dự cho Dương Hậu.
MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Các bộ sử được
viết trong nửa sau thế kỷ XX, thường chỉ nhấn mạnh đến vai trò của Lê Hoàn, và
bỏ qua chi tiết Dương Thái Hậu khoác long bào cho Lê Hoàn, cũng như chuyện tình
cảm cá nhân giữa hai người[19]. Cuốn Lịch sử Việt Nam mô tả “vận mệnh của cả
dân tộc đang bị nạn ngoại xâm đe dọa nghiêm trọng. Chính quyền độc lập non trẻ
đang đứng trước một thử thách lớn. Trong lúc đó, vua Đinh còn ít tuổi chưa đủ
khả năng và uy tín để tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Vì sự nghiệp bảo vệ
độc lập dân tộc, quân sĩ và một số quan lại liền suy tôn Lê Hoàn lên làm vua…”[20].
Sự biến mất của
Dương Thái Hậu cũng là một chỉ số cho thấy, các sử gia chỉ quan tâm đến các đại
tự sự, các biến cố lớn trên chính trường, và không quan tâm đến các chuyện cá
nhân đan xen với chính trị, nhất là chuyện liên quan đến phụ nữ và tình cảm.
Cho đến năm
1971, Văn Tân là người đầu tiên trong giai đoạn mới, đã lên tiếng về Dương Thái
hậu trong bài “Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến thắngChi Lăng lần thứ nhất
(981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thế
kỷ X”. Ông đã mô tả lại việc sử dụng lực lượng quân sự của Lê Hoàn và Phạm Cự Lạng
để thực hiện cuộc chuyển ngôi từ Đinh sang Lê. Trong khi “triều đình còn đang
lúng túng chưa biết xử trí ra sao, thì bà Dương Vân Nga tức Dương Thái Hậu, mẹ
Đinh Toàn, lấy áo hoàng bào khoác vào Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua. Hành động
mạnh dạn và sáng suốt của bà Dương Vân Nga mở một lối thoát cho triều đình, tạo
cơ sở pháp lý cho Lê Hoàn để ông này có thể lên thay nhà Đinh mà vẫn không mang
tiếng là cướp ngôi của vua nhà Đinh”[21]. Văn Tân đã lược bỏ các chi tiết tình
ái đời tư giữa Dương Thái Hậu và Lê Hoàn, cũng như bỏ qua toàn bộ các kiểu phê
phán của sử thần phong kiến. Ông cô lập hóa sự kiện để việc chuyển ngôi mang sắc
thái trung tính và khách quan. Sự tái mô tả của Văn Tân là một hiện trường hiển
minh cho quá trình con người chính trị (phe đàn ông) đã tái sử dụng hình ảnh của
phụ nữ cho những gì mà thời đại mong muốn.
Năm 1981, Văn
Tân tiếp tục phát biểu về Dương Thái Hậu với những ý vị mới. Ông viết: “tiếng
nói của quân đội lúc này là tiếng nói của cả dân tộc trong lúc thế nước gặp
gian nguy… Truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc Việt Nam nói chung và
của phụ nữ Việt Nam nói riêng đã làm cho Dương Thái Hậu nhanh chóng tìm ra một
lối đi phù hợp với lợi ích của dân tộc… Việc chủ động chuyển quyền hành của bản
thân mình và của con mình cho Lê Hoàn, Dương Thái Hậu tỏ ra là một phụ nữ khôn
ngoan, sáng suốt, dám lựa chọn sự hy sinh lớn khi cần phải lựa chọn. Hành động
của bà rất đẹp đẽ, nó có tác dụng hàn gắn mọi rạn nứt trong lực lượng dân tộc nảy
sinh ra từ cái chết đột ngột của Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Đinh Liễn”[22].
Cách đánh giá về sự kiện Dương Thái Hậu như trên có một bước ngoặt quan trọng về
hệ hình viết sử. Văn Tân đã đưa “dân tộc”- khái niệm quan trọng nhất của bối cảnh
chính trị đương thời, vào trong hoạt động nghiên cứu lịch sử. “Dân tộc” là vấn
đề trung tâm, “đoàn kết dân tộc” là hoạt động thiết thực của người làm chính trị,
các “rạn nứt trong lực lượng dân tộc” là nguy cơ của việc phá vỡ khối đại đoàn
kết dân tộc, dẫn đến việc giặc xâm lược, đe dọa đến độc lập dân tộc. Mà Độc lập
là lợi ích sống còn của dân tộc. Dương Thái Hậu đã được đặt vào khung lý thuyết
mới, hệ tư tưởng mới. Bà được đánh giá là người đã biết hy sinh lợi ích cá nhân
để hàn gắn rạn nứt dân tộc, là người đã khôn ngoan tiến hành công tác đoàn kết
dân tộc, thể hiện ý chí của toàn thể dân tộc.
Đến nửa
sau thế kỷ XX, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức Nho giáo và
khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc gia”, “dân tộc”
và “chủ nghĩa yêu nước”.
Nhiều tác giả
ở thời điểm này như Nguyễn Danh Phiệt, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huệ Chi cũng
có những tiếng nói tương đồng với Văn
Tân trong việc đánh giá vai trò của Dương Thái Hậu. Sau này, có những nhà
nghiên cứu văn hóa lịch sử nữ phân tích hình tượng Dương Thái Hậu, nhưng việc
phân tích từ quan điểm, giọng nói của phụ nữ vẫn còn khá hiếm hoi. Đến Lee Seon
Hee là người phụ nữ đầu tiên phân tích về hình ảnh Dương Thái Hậu góc độ “phê
bình nữ quyền” (Feminist Narratology)[23], từ quan điểm và giọng nói của phụ nữ.
Lee Seon Hee đã sử dụng các khái niệm như “nữ tính”, “quyền tự do yêu đương”,
“quyền tự do hôn nhân”,… trong lập luận của mình. Hành động Dương Thái Hậu yêu
Lê Hoàn, trao ngôi cho Lê Hoàn, làm Hoàng hậu của Lê Hoàn được nhận định như là
chuỗi hành động thuộc về “tính nhân bản”. Theo Lee Seon Hee, Thái hậu đã “chứng
minh giá trị lớn lao của người phụ nữ không chỉ ở sự giác ngộ tự thân về quyền
lợi về địa vị của mình phải gắn liền với quyền lợi và địa vị của quốc gia dân tộc
mà còn ở cả trí thông minh, tầm nhìn chiến lược đồng thời lại cũng rất nữ tính
nữa”[24]. Dương Vân Nga là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên trong lịch sử đã nêu
một tấm gương sáng về quyền tự quyết định vận mệnh của bản thân mình – quyền tự
do yêu đương, tự do hôn nhân mà không bị lệ thuộc vào giáo lý phong kiến, cũng
như thói thường của dư luận”[25]. Giá trị cuối cùng là bà đã được nhân dân thờ ở
vị trí trung tâm, coi bà như một biểu tượng “của một tinh thần xả thần vì cộng
đồng,…, của một trái tim phụ nữ tha thiết yêu đương, nhưng cũng vô cùng dũng cảm
để tự quyết định tình yêu của mình”. Lee Seon Hee đứng hẳn về phía phụ nữ, muốn
phá bỏ sự bất bình đẳng giới đối với Dương Thái Hậu, phản đối cách nhìn của đàn
ông (nhất là đàn ông Nho giáo) đã áp đặt lên. Lee Seon Hee đã khước từ giọng
nói của phía đàn ông bằng những biện luận về căn tính nữ của chủ thể lịch sử.
Nhìn chung,
hình tượng Dương Hậu là một kết quả của cả quá trình tái tạo tri thức lịch sử bằng
cả khoa học và nghệ thuật. Về cơ bản, dù bị mắng nhiếc hay minh oan, hay xuất
hiện ảo mờ - khuất lấp, bà (và các bà hoàng hậu khác) vẫn chỉ là các nhân vật
phụ được tạo dựng dưới nhãn quan của nhiều lớp đàn ông với hệ tư tưởng hiện dụng
của thời đại. Các bà hoàng hậu hiện lên dưới ngòi bút của cánh đàn ông, không
phải vì bản thân họ (với tư cách là phụ nữ) mà vì đàn ông vì các lợi ích gia tộc
- phe nhóm - lợi ích chính trị xã hội của đàn ông, họ là tệp đính kèm, tệp phụ,
minh họa cho hoạt động chính trị của đàn ông, và thể hiện các diễn ngôn chính
trị mà đàn ông đã tạo nghĩa lên hình ảnh của họ.
___________
Chú thích:
- 1,2,3,4,6 Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử
ký toàn thư, sđd, 1998.
- 5 Có lẽ là Lạng là Thứ sử châu Nam Sách
Giang (xem thêm phần viết về “Có hay không loạn 12 sứ quân?”
- 7 Đặng Xuân Bảng, 1905, <越史綱目節要>
Việt sử cương mục tiết yếu, Ký hiệu: A.1592/1 – 2: 609 tr., 31 x 20, VNCHN,
Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. Tr.69.
- 8 [Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử ký
toàn thư, sđd, 1998, tr.221-2]. Tạ Chí Đại Trường cho là việc thờ cúng này đến
Lê sơ đã qua vài trăm năm.
- 9 Toàn thư ghi Năm 1436, Lê Thúc Hiển được
làm “An phủ sứ lộ Trường yên. Hiển người thôn Hồn, thuộc Hồng Châu, có tài về
chính sự, được mọi người khâm phục”.
- 10 Nguyễn Lễ soạn, 1611, Tạo tác Thánh
tượng tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh, Văn bia đền thờ Vua Lê,
Ninh Bình.
- 11 Trần Hậu Yên Thế, 2013, bđd, tr.715.
Xem thêm Nhị Hà, 2009, Có nên duy trì tên đường Dương Vân Nga, Tạp chí Hồn Việt,
Nguồn: http://www.honvietquochoc.com. vn/bai-viet/3068-co-nen-duy-tri-ten-duong-duong-van-nga.aspx.
Ngày đăng: 06 Tháng Mười 2009.
- 12 Trần Hậu Yên Thế, 2013, Bảo Quang
Hoàng Hậu là ai? Tại sao lại có danh hiệu này? Trong “Thông báo Hán Nôm học
2012”, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.713-718.
- 13 Song Cối, “Nhân nói đến gia đình vua
Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số 41, thứ 3, 7 Avril
1942, tr. 18.
- 14 Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái,
1870, <大南国使演歌> Đại Nam quốc sử diễn ca,
Trí Trung Đường in năm Tự Đức 23. VNv. 118, Lã Minh Hằng khảo cứu phiên âm chú
thích, Nxb Văn học, Hà Nội, 2008. Tr.92.
- 15 Quốc sử quán triều Nguyễn, 1910, Đại Nam nhất thống chí, T2. Hoàng Văn Lậu dịch,
Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2012. Tr.1044. Nguyễn Tử Mẫn 阮 子忞, 1862, <寧平全省地誌考辨>
Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện, A.922, VNCHN, Nguyễn Mạnh Duân dịch,
Nguyễn Thụy Ứng hiệu đính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.126
- 16 Hoàn vương ca tích, Bùi Văn Cường,
Nguyễn Tế Nhị, Nguyễn Văn Điềm sưu tầm, giới thiệu, Lao động, Hà Nội, 2011. Đền
thờ ở đình Bách Cốc, xã Thành Lợi, Vụ Bản, Nam Định.
- 17 Song Cối (Hoàng Thúc Trâm), “Nhân nói
đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số
41, thứ 3, 7 Avril 1942, tr. 18.
- 18 Đầu thế kỷ 20, các sách về tình dục của
phương Tây đã được dịch sang tiếng Hán và tiếng Việt.
- 19 Ví dụ Đào Duy Anh (Lịch sử Việt Nam,
sđd,), hay bộ Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
- 20 Ủy
ban Khoa học Xã hội, 1971, Lịch sử Việt Nam, T.1, Nxb.KHXH. Hà Nội,
tr.145.
- 21 Văn Tân, Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến
thắng Chi Lăng lần thứ nhất (981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch
sử dân tộc Việt Nam thế kỷ X, NCLS, 1971, số 140, tr.2.
- 22 Văn Tân, Vai trò của Lê Hoàn hồi thế
kỷ X đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, NCLS, 1981, số 2 (197), tr.7.
- 23 Susan Lanser, “Toward a Feminist
Narratology”, in Feminisms: An Anthology of Literary Theory and Criticism,
Robyn Warhol & Diane Price Herndl, Rutgers University Press, New Brunswick
& New Jersey, tr.674-693.
- 24 Lee Seon Hee, Thái hậu Dương Vân Nga
và vai trò của người phụ nữ Việt Nam hồi thế kỷ X , NCLS, 2000, số 5 (312),
tr.52.
- 25 Lee Seon Hee, bđd, 2000, số 5 (312),
tr.53.
No comments:
Post a Comment