Nguồn: Vương Trí Nhàn, Phê bình & tiểu luận, Nxb Hội nhà văn, 2009.
(*) Bài in trên tạp
chí Nghiên cứu văn học Hà Nội, số tháng 7-2005, với tựa: "Vai trò của trí
thức trong quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ở VN đầu thế kỷ XX".
Phạm Quỳnh (1892 - 1945) |
I.
Từ Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch qua Phan
Chu Trinh và các nhà nho hoạt động cho Ðông Kinh Nghĩa Thục, trong giới trí
thức thường gọi là các sĩ phu của nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, thấy nổi lên một loạt người có cách nhìn khác đi so với cách giải quyết
thông thường các vấn đề xã hội.
Họ cũng yêu nước; trước hoạ diệt vong, họ
cũng muốn nhận lấy trách nhiệm với đất nước.
Song, xem xét kỹ tình hình xã hội đương thời, họ
cho rằng cứu nước trước tiên không phải là lập
nên lực lượng vũ trang tổ chức kháng Pháp mà cần “cường dân hoá quốc”, đưa nước
ta hưng thịnh theo mẫu hình xã hội phương Tây, sau đó thì
công cuộc cứu nước cực kỳ quan trọng kia mới có cơ thực hiện.
Khi quan niệm như vậy, một số nhà nho ấy - những
người cho rằng cái tư tưởng nhật tân, nhật nhật tân, hựu
nhật tân mới là tinh hoa cao qúy nhất của đạo Nho -- quả
đã trải qua một cuộc đột biến trong suy nghĩ.
Song, trong trường hợp này, sự nhạy cảm đã mách
bảo họ khá chính xác, trí tuệ của họ tìm ra một định hướng hợp lý khiến cho
lòng yêu nước có được sức sống, lại mang sắc thái khá hiện đại.
Nói gọn lại là họ đã đúng!
Hãy thử nhìn vào sự chuyển biến của xã hội Việt
Nam trong lịch sử: nếu đem xã hội cuối thế kỷ XIX và một vài năm đầu tiên của
thế kỷ XX đó, so sánh với chính nó những năm 30-40 (và không quên quy
định rõ với nhau rằng chỉ xét sự vật thuần tuý mà không đếm xỉa đến những
nguyên nhân khách quan, chủ quan, các loại tác động bên trong và bên ngoài
v.v...), người ta sẽ ngạc nhiên thấy giữa đôi bên có một khoảng cách xa thẳm.
Một sự thay đổi ghê gớm đã đến với xã hội này,
chẳng khác chi một con người đổi thịt thay da, hoặc một cỗ máy được tháo ra và
lắp lại theo kiểu khác.
Từ góc độ của kẻ đứng ngoài - trong trường
hợp này là kẻ cầm đầu cơ quan cai trị - vào năm 1928, toàn quyền P. Pasquier đã
khái quát bằng hình ảnh “Tôi từng biết nước Nam hồi còn đi võng, nay
xem ra như đã muốn lên tàu bay rồi“ (Nam Phong. Số 127,
1928; tr. 216).
Hơn chục năm sau, tức là qua năm 1942, trong bài
mở đầu cho Thi nhân Việt Nam 1932 41, với tư cách một người trong cuộc, Hoài Thanh
sẽ viết về một nước Việt Nam kỳ lạ:
“Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây,
đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp
(...). Nhưng cuộc Âu hoá không phải chỉ có thế. Nó đã đi qua hai giai đoạn: hình
thức và tư tưởng; nó còn phải đi qua một giai đoạn nữa. Nó đã thay đổi những
tập quán sinh hoạt hàng ngày, nó đã thay đổi cách ta vận động tư tưởng, tất nó
sẽ thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa (...) Phương Tây bây giờ đã đi tới
chỗ sâu nhất trong hồn ta“ (Hoài Thanh, tr. 18). [1]
Sự vận động như vậy đã rõ, phương hướng lại càng
rõ.
Trước khi nhà văn hoạt kê Vũ Trọng Phụng cho
Xuân tóc đỏ mang hai chữ Âu hoá ra đùa giỡn, thì suốt một thời gian dài, nó đã
là điều ám ảnh, tức yếu tố chi phối mọi hành động của bao người.
Sở dĩ nó, cuộc Âu hoá ấy, có thể diễn ra, và bất
chấp mọi giá (ngay trong máu và nước mắt, trong chán chường và uất hận), vẫn
diễn ra, bởi lẽ rộng hơn suy nghĩ của một hai người có đầu óc sáng suốt, và
rộng hơn một phong trào vận động, nó là nhu cầu bức bách của cả xã hội.
Chẳng phải bốc đồng mà Phan Chu Trinh, trong thư
gửi toàn quyền Pháp từng kêu lên về tình trạng suy đồi của đời sống tinh thần
trong dân ta lúc bấy giờ:
“Giả phỏng chính phủ cho mượn
dăm ngàn khẩu súng cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm
gì thì làm, chỉ độ dăm năm, thật là báo thù lẫn nhau cho chết hết mới thôi,
quyết không thể sống nổi trong cái thế giới này, lại còn chống cự được ai nữa?“
(Dẫn theo Ðặng Thai Mai tr. 251).
Ý Phan Chu Trinh muốn bảo, trong hoàn cảnh ấy,
không canh tân đất nước đi, thì có độc lập cũng vô nghĩa.
Theo lô - gích mà suy, rõ ràng giữa hai
nhiệm vụ là đánh Pháp và mở mang dân trí, cái thứ hai nếu không cấp bách hơn thì
cũng quan trọng ngang với cái thứ nhất.
Có điều, cũng từ đây, khía cạnh bi đát của
lịch sử bắt đầu bộc lộ.
Biết bao người có tâm, có chí, có hiểu biết song
bởi chỗ chỉ chăm chăm lo việc trước mắt, hoá ra manh động, trước sau không
tránh được thất bại.
Trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở
Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám tập II với tiêu
đề cụ thể Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước
các nhiệm vụ lịch sử, Trần Văn Giàu xác nhận:
“Những tổ chức cách mạng yêu
nước không hề đặt vấn đề điều hoà văn hoá Ðông phương và Tây phương, chỉ nghĩ
rằng đi vào văn hoá là xa rời yêu nước” (Trần Văn Giàu, tr. 529).
Chủ ý của ông là muốn đưa ra để khen ngợi,
song chúng tôi tưởng, nếu đúng như thế, thì đây lại là lời cắt nghĩa đúng đắn
bậc nhất về thất bại của những người yêu nước đương thời (xin lưu ý tôi nói
những người yêu nước đương thời, tức là thời mà xã hội Việt Nam chưa được nhào
nặn lại theo hướng Âu hoá, chứ không phải những người yêu nước mọi thời khác).
Trong khi ấy, có những kẻ lâu nay thường được
lịch sử ta coi như bọn phản bội, đặt cược cả đời mình vào việc cộng tác với
ngoại bang, tối thiểu cam chịu một bề, đầu hàng hoàn cảnh, cốt sống và tồn tại,
song, suy cho cùng, họ rất gần gũi với cách hiểu của Phan Chu Trinh nói trên về
tình trạng đất nước, cũng như cách vượt ra khỏi tình trạng tệ hại đó.
Khách quan mà xét họ có đóng góp vào việc thúc
đẩy cho sự nghiệp canh tân.
Việc đánh giá các nhân vật lịch sử bao giờ cũng
phải rất cụ thể.
Giữa những người cùng làm một việc, động cơ chi
phối chưa chắc đã giống nhau; giữa những người cùng ý nghĩ, có khi lịch trình
hành trạng lại trái ngược và sẽ được thông cảm ở mức độ khác nhau.
Tuy nhiên nếu được phép quan niệm rằng với xã
hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nhu cầu canh tân - với tư
cách là bước đầu tiên đi đến cứu nước - là một nhu cầu có thật,
thì người ta sẽ dễ dàng độ lượng và có cái nhìn phải chăng hơn với nhiều người,
trong đó có một nhân vật lịch sử mà lâu nay thường được quy là đầu sỏ tội
trạng, song thực tế lại đã làm được khá nhiều việc có ích trong nghiên cứu,
giới thiệu và dịch thuật văn hoá phương Tây vào Việt Nam, cũng như trong việc
hướng văn hoá Việt Nam hoà nhập vào văn hoá thế giới nói chung.
Người đó là nhà văn Phạm Quỳnh (1892-1945).
II.
Theo nhà sử học Nhật Tsubôi thì một trong những
đòi hỏi cấp bách nhất đặt ra với nhiều nước ở phương Ðông hồi cuối thế kỷ XIX
là phải “tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một kiểu tư duy khả dĩ thức
tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành trướng của phương Tây”.
Và để đáp ứng đòi hỏi đó, ở Nhật Bản người
ta đã đưa ra khẩu hiệu “Hoà hồn dương tài”, ở Triều Tiên có “Ðông đạo tây khí”,
ở Trung Quốc có “Trung thể tây dụng”.
Bằng cách diễn tả khác nhau, các khẩu hiệu đó có
phần cốt lõi giống nhau: đó là những cố gắng của trí thức mỗi nước nhằm tìm
cách hoà hợp văn hoá Ðông -Tây và tạo cho đất nước một sự thích ứng với hoàn
cảnh (Tsubôi, tr. 184-185).
Trong khi đó ở Việt Nam thì sao?
Một mặt đúng như nhà sử học Nhật đã nhận
xét “do chỗ Việt Nam (...) bảo thủ hơn các nước theo Nho giáo khác”,
- ở Việt Nam đã không thấy có một khẩu hiệu tương tự. Và đây chính là một trong
những lý do khiến đất nước ta rơi vào tay bọn xâm lược, còn xã hội thì trượt
dài trong một cuộc khủng hoảng tồi tệ.
Mặt khác, nên nhớ rằng một trong những đặc điểm
của văn hoá Việt Nam là thói quen dung hoà, tức là khả
năng chấp nhận những ảnh hưởng xa lạ với mình, thích ứng với hoàn cảnh mới để
tồn tại (Có người đã hỏi giáo sư Hoàng Xuân Hãn “Có thể đó là một trong những lý
do làm nên sự sống còn của Việt Nam?”, ông đã trả lời “Có thể lắm” - tư liệu do nhà sử học Trần Quốc Vượng
cung cấp).
Bởi vậy, tuy không có những khẩu hiệu rõ ràng
tức là không được đưa lên phương diện ý thức, song sự tiếp nhận văn minh phương
Tây vẫn cứ ngấm ngầm xảy ra, dần dà tự phát mà xảy ra.
Cái tinh thần thấy ở các khẩu hiệu nói trên ở
Nhật Bản, ở Trung Hoa, vẫn là điều được thực hiện ở Việt Nam.
Những nỗ lực “tuỳ tâm Âu hoá” khởi đi từ các nhà
nho trong Ðông Kinh Nghĩa Thục và Phan Chu Trinh, đến những năm sau, càng được
nhiều người thấy là phải và thành tâm tin theo.
Nói như Trần Văn Giàu “Tư tưởng về sự điều hoà đạo đức
phương Ðông với khoa học phương Tây để tạo cho Việt Nam một lớp thượng lưu mới,
tạo cho Việt Nam điều kiện đi tới phú cường - tư tưởng đó trong những năm 20 và
30 khá là phổ biến trong các báo chí chứ không riêng gì trên Nam Phong“
(Trần Văn Giàu, tr. 526).
Thế chỗ bắt đầu của tâm thức “kết hợp Ðông-
Tây”, “thổ nạp Âu Á” này là gì?
Có một khái niệm cơ bản, một khi có được nhận
thức mới về nó, người ta sẽ hiểu đúng hơn thực chất các vấn đề xã hội do đó có
một phương hướng hành động đúng: Ðó là khái niệm văn hoá.
Những người có quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều
biết rằng ngay từ thế kỷ XV, trong Bình Ngô đại cáo,
Nguyễn Trãi đã nói đến văn hoá:
Như nước Ðại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Cho đến cuối thế kỷ XIX, trong đầu óc các nhà
nho, văn hoá vẫn được hiểu như vậy. Có cương vực bờ cõi riêng, phong tục tập
quán riêng, tức chúng ta đã có văn hoá riêng. Chắc chắn không có gì đáng phải
phàn nàn về nền văn hoá đó.
Hơn nữa, nó - nền văn hoá ấy - đủ mạnh đến mức
có thể là yếu tố cố kết mọi người lại, lôi cuốn họ vào cuộc chiến đấu cứu nước,
cho đến khi lấy lại được đất nước.
Tiếc thay, điều đã đúng trong các thế kỷ trước,
đến nay không đúng nữa.
Mặc dù vẫn nhân danh văn hoá (theo nghĩa rộng),
nhân danh hùng khí đất nước để chiến đấu, song các cuộc khởi nghĩa Cần vương
trước sau không tránh được thất bại.
Tại mệnh trời chăng? Lúc đầu nhiều người chỉ
nghĩ có vậy. Song lẻ tẻ, bắt đầu có người ngờ rằng sở dĩ chúng ta thất bại, vì
cuộc sống ở xã hội ta quá trì trệ, dân trí ta thấp, trong đó có sự hiểu biết
của ta về thế giới quanh ta đơn giản nghèo nàn cũ kỹ dẫn đến tình trạng có sự
tách rời giữa nước ta với thế giới.
Vậy là tại văn hoá .
Nếu cứ để như cũ, nền văn hoá đã là lý do
của mất nước lại sẽ trở thành vật cản trong công cuộc cứu nước. Dù sâu cây bén
rễ đến đâu, nền văn hoá đó cũng phải được làm lại.
Phải nói rằng trước lớp trí thức Tây học khá
lâu, các nhà nho đã có người nghĩ như vậy.
Song với lớp trí thức trẻ hơn (sản phẩm của quá
trình Âu hoá do sự áp đặt cưỡng bức của thực dân Pháp) thì các ý nghĩ đó mới
được đẩy đến cùng. Ðến lượt mình, Phạm Quỳnh sẽ có dịp nhấn mạnh điều đó thật
đầy đủ khi phác ra bức tranh toàn cảnh của cả khu vực phương Ðông lúc ấy:
“Cái nông nỗi mất nước của ta
chính là một tấn kịch nhỏ trong tấn kịch Ðông - Tây xung đột nhau. Tây phương
đem lại cái chủ nghĩa đế quốc, cái dục vọng bá quyền, những tư tưởng phá hoại những
cơ khí tối tân mà tràn ngập sang Ðông phương trong khoảng một thế kỷ nay, làm
cho các dân tộc Ðông phương thất điên bát đảo bảy nổi ba chìm đến nay hãy còn
tê mê chưa tỉnh sự đời. Thành ra cái nông nỗi ấy đối với ta không phải chỉ là
một vấn đề chính trị mà thôi, lại kèm thêm một vấn đề văn hoá nữa, khó khăn
nguy hiểm vô cùng.”
Phạm Quỳnh đã viết như vậy trong bài Văn hoá và chính trị in ở tạp chí Nam Phong số 107, năm 1926.
Và Phạm Quỳnh còn trở đi trở lại với cái ý ấy
trong nhiều bài viết lớn nhỏ khác nữa, bao gồm từ những bài quan trọng, trình
bày chính kiến, hoặc kiểm điểm thành tựu của Nam Phong, cho tới
các đoạn văn ngắn, nhân chuyện thời sự mà bàn thêm việc chung (ông gọi là
mục Thời đàm ).
Trong những phát biểu như vậy, tác giả đã
làm một cuộc đảo lộn trong quan niệm, bởi đã dám trao cho văn hoá một sứ mệnh
lớn, trực tiếp liên quan đến sự sống còn của đất nước.
Mối phản cảm đã đến rất nhanh với người đương
thời.
Làm sao mà việc mất nước lại do văn hoá được? Do
quen sống trong một hệ giá trị khác, làm sao các nhà nho khỏi bị sốc khi phải
nghe một kiểu ăn nói nghĩ ngợi khác hẳn mình như vậy?!
Trong cảnh bất lực vì không làm cách gì để đuổi
bọn cướp nước đi được, bấy lâu, điều làm cho họ cảm thấy được an ủi, là thực
ra, bọn cướp nước kia là man di mọi rợ, ta cao hơn chúng, và mặc dù bị thua,
song ta vẫn không thèm dùng đồ của chúng, đi xe của chúng...
Nay thì tinh thần bài ngoại ấy
- một thứ chủ nghĩa yêu nước thẳng tay từ chối mọi nền văn hoá khác
lạ - hình như không có cơ đứng vững nữa, làm sao mà họ chịu
nổi!
Thế còn đối với các nhà Tây học, liệu có thể nói
quan niệm đó của Phạm Quỳnh về văn hoá, là quan niệm có tính chất chính thống
và phổ biến trong lớp trí thức trẻ đương thời?
Cũng không hẳn.
Trong số những người cộng tác với thực dân Pháp
lúc ấy không thiếu gì kẻ bị ngợp trước nền văn minh mới, hoàn toàn chối bỏ nền
văn hoá truyền thống của dân tộc. Có gì chung với đám người ấy thì chung, riêng
chỗ này Phạm Quỳnh không chịu!
Khi thuật lại chuyện du lịch ở Paris trước
1.500 người nghe, ông không khỏi tự hào “báo cáo” với thính giả rằng mình đã
dám nói ngay ở Paris, trước Viện Hàn lâm Pháp:
“Nước Việt Nam là một nước cổ, vốn đã có một nền văn hoá cũ nhưng
văn hoá cũ ấy ngày nay không thích hợp với thời thế nữa, cần phải thâu thái lấy
văn hoá mới đời nay mới có thể sinh tồn được trong thế giới bây giờ”.
Ông yêu cầu nhà nước bảo hộ phải có, trên phương
diện văn hoá, mà cũng tức là trên phát triển của xã hội, một chính sách sáng
suốt:
“Nếu dân Việt Nam là một dân tộc còn mộc mạc cổ lỗ, chưa có nền
nếp chưa có lịch sử, thì quý quốc cứ việc hoá theo Tây cả (...) đồng hoá được
đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay dân Việt Nam không phải là một tờ giấy
trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy đã có sẵn từ đời nào đến
giờ rồi, nếu bây giờ viết đè một thứ chữ nữa lên trên, thì e thành giấy lộn
mất.” (Thượng Chi văn tập, tr. II , tr. 215)
Với một cách nhìn chi tiết và cẩn trọng, văn hoá
dân tộc với Phạm Quỳnh hiện ra như một cái gì đa dạng.
Nó là một thực thể có thật, không ai có thể gạt
bỏ.
Nó đã ăn vào máu thịt mỗi chúng ta, thậm chí là
một gánh nặng, mãi mãi chúng ta phải mang.
Song trong gánh nặng ấy, lại thấm thía bao nhiêu
mồ hôi nước mắt của tiên tổ cha ông, lại in dấu bao vui buồn của mỗi kiếp
người! Bởi vậy, tốt hơn hết là hãy đến với cái bản chất thứ hai ấy của ta với
một thái độ hết sức thân tình, vừa tha thiết, vừa tỉnh táo, vừa vui với nó bằng
lòng với nó, vừa biết rằng ở đó có những chỗ yếu, những khuyết tật. Tinh thần
phê phán - vốn là đặc trưng của văn hoá phương Tây - có mặt trong từng nhận xét
nhỏ nhất của Phạm Quỳnh để rồi giúp ông đi tới một tinh thần cởi mở và một thái
độ chân thành trong tiếp nhận.
Không chỉ mang lại cho sự tiếp nhận đó một ý
nghĩa một lý do tồn tại, ông còn đề ra cho nó những bước
đi và mang lại cho những người làm việc cụ thể một sự động viên, một niềm an
ủi.
Bằng con mắt của con người Việt Nam ở cuối thế
kỷ XX, với mặc cảm tự tôn hình thành và tiếp nối trong nhiều thế hệ, ngày nay
đọc lại Phạm Quỳnh, chúng ta dễ có cảm tưởng trước người nước ngoài và văn hoá
nước ngoài, ông chủ bút Nam Phong có
phần học trò, quá đề cao và tôn sùng một chiều.
Song, nếu nhớ lại rằng vào thời của Phạm Quỳnh,
nền quốc văn mới - rộng hơn, cả nền văn hoá mới, những nếp sống mới - còn đang
ở dạng sơ khai, thì chúng ta sẽ thông cảm với ông hơn. Hoặc hãy nhìn sang nước
Nhật, cách người Nhật nhìn nhận và cách học của họ trước văn hoá nước ngoài,
chúng ta sẽ thấy trong những gặp gỡ ban đầu, sự trân trọng là cần thiết đến như
thế nào.
Tóm lại, trước khi tiếp nhận và đồng thời với
việc tiếp nhận, Phạm Quỳnh đã giải quyết một số vấn đề giống như cơ sở lý
thuyết.
1. Thế nào là văn
hoá
2. Thực chất của
văn hoá dân tộc
3. Mối quan hệ giữa
văn hoá và thực trạng đất nước, giữa việc mở mang văn hoá và công cuộc cứu
nước.
4. Tính cấp bách và
thái độ cần thiết khi tiếp nhận.
Ðây là những định hướng quan trọng mà thiếu đi,
sự tiếp nhận văn hoá phương Tây không thể thực hiện một cách tương đối ổn thoả
như nó đã được thực hiện.
Trong sự bình tĩnh của con người sống ở cuối thế
kỷ XX đầu XXI, chúng ta có dịp nhận thấy những thành tựu của giai đoạn văn hoá
tiền chiến, là khá rực rỡ, có lẽ là thuộc loại rực rỡ bậc nhất trong lịch sử
dân tộc. Nhưng tất cả đã được gợi mở từ nhiều năm trước khi những người như
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Tản Ðà... mới đào móng xây nền.
III.
Chẳng những có phương hướng đúng đắn, có quan
niệm khá chính xác về công việc, Phạm Quỳnh còn bắt tay vào làm, tức mang đến
cho sự tiếp nhận văn hoá phương Tây những đóng góp cụ thể.
Trong khi hô hào mọi người nên như thế nọ nên
như thế kia, đồng thời Phạm Quỳnh không quên phần việc của mình. Với sự thông
minh hiếm có và thói quen làm việc siêng năng, ông thật đã hoàn thành một khối
lượng công việc khổng lồ mà người đương thời và các thế hệ sau phải kính phục.
Ðể có một ý niệm sơ bộ về công việc mà Phạm
Quỳnh đã làm, người ta chỉ cần giở qua tạp chí Nam Phong,
thậm chí một cuốn bản đồ thu nhỏ của nó, như cuốn Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong 1917-1934 của
L. M. Nguyễn Khắc Xuyên in ở Sài Gòn 1968.
·
Ở mục Triết học Tây phương, trong vòng 17 năm, Nam Phong in 14 bài thì riêng Phạm Quỳnh đã viết
11 bài.
·
Ở mục Xã hội ngoại quốc, hai con số đó là 13 và 9.
·
Ở mục Chính trị ngoại quốc: 18 và 15.
·
Ở mục Giới thiệu văn học các nước: 15 và 12.
·
Ở mục Giới thiệu văn học Pháp: 39 và 34.
·
Ở mục Truyện dịch Pháp: 26 và 15.
Với ba bút hiệu khác nhau (Phạm Quỳnh, Thượng
Chi, Hồng Nhân), ông đã “thi công” ngòi bút ở đủ các thể loại: viết có, dịch
có, lược thuật có, khảo cứu có. Chỉ trừ thơ là ông không dịch (hoặc không định
dịch như một nhà thơ), ngoài ra, thấy cái gì hay, cái gì cần kíp với đời sống
trong nước Phạm Quỳnh lập tức tìm cách chuyển nó sang tiếng Việt nghĩa là khoác
cho nó bộ y phục dân tộc.
Vừa bao quát lịch sử, ông vừa chú ý các vấn đề
đương đại của văn học.
Vừa làm các việc tương đối lâu dài theo hệ thống
đã định, ông vừa có sự phản ứng linh hoạt, năng nổ thu vén nhặt nhạnh, không
chịu bỏ rơi bỏ sót cái gì.
Có thể là ngòi bút dịch thuật của Phạm Quỳnh
không thật tài hoa, nhưng theo một người thạo tiếng Pháp và cũng hay bắt bẻ như
Vũ Ngọc Phan, thì các đoản thiên tiểu thuyết được ông chuyển từ tiếng Pháp sang
tiếng Việt một cách vừa có duyên vừa sát nghĩa, còn văn khảo cứu của ông chứng
tỏ tác giả là “một người có cái học vừa sâu sắc vừa quảng bác”.
Ngày từ 1933, trong Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn đã ghi công cho Phạm
Quỳnh “Những công trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là của nước
Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng thật hay, vừa biết
tôn trọng cái nguyên ý của tác giả, lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc
văn” (Thiếu Sơn - tr. 19).
Hơn chục năm sau, nhóm Thanh Nghị còn đưa ra những nhận xét khái quát
hơn.
Trong bài viết mang tên Nay và mai in trên Thanh
Nghị số Tết 1944, Ðinh Gia Trinh cho rằng trong sự kết hợp Ðông
Tây, chính thái độ Nam Phong là ôn
tồn và phải chăng hơn cả.
Qua thời Tự lực, vẫn theo
Ðinh Gia Trinh, người ta “đột ngột đi tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần
của nước nhà sự ca tụng quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời
kỳ Phong hoá, Ngày nay)”.
Về phần mình nhóm Thanh Nghị không giấu giếm ý đồ “ trở lại sự tôn
trọng những di sản của đất nước, những tinh tuý của văn minh Á Đông trong
khi tin tưởng càng mạnh là ta phải học nhiều ở Tây phương để đi tới sự
thành công trong việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam
xứng đáng” (VTN nhấn mạnh) Có thể là Thanh Nghị vẫn
không phục gì Phạm Quỳnh (nhất là lúc này Phạm Quỳnh đã vào triều làm quan);
nhưng trong một mục tiêu như thế, họ đâu có ngờ là họ đã đến rất gần các mục
tiêu của Nam Phong.
Ðấy là những cách đánh giá tích cực.
Về một phía khác, sự phủ nhận đóng góp của Nam Phong nói chung của Phạm Quỳnh nói riêng cũng
rất quyết liệt. Và trong những năm tháng mà cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc
nổi lên hàng đầu, thì là cả một sự quyết liệt không khoan nhượng.
Ðáng kể nhất là trường hợp Ngô Ðức Kế, như lịch
sử văn học đã ghi nhận, và gần đây là Ðặng Thai Mai.
Trong khi dựng lại bức tranh chung của đời sống
văn học đầu thế kỷ, nhà nghiên cứu họ Đặng không dành cho Nam Phong một ý nghĩa tích cực nào, kể cả trên
lĩnh vực thuần tuý học thuật.
Những nhận xét chính của Ðặng Thai Mai đối với
vai trò của Phạm Quỳnh trong việc tiếp nhận văn hoá có thể tóm tắt:
1. Lập trường của
Phạm Quỳnh đã hỏng, đã là dơ bẩn, thì “ý kiến của y cũng chỉ có thể có hại cho
tinh thần”.
2. Thực ra Phạm
Quỳnh không ghê gớm như chúng ta tưởng:
o “Cái mà Phạm Quỳnh giới
thiệu trên tờ Nam Phong không hề có một mặt
nào có thể nói là có hệ thống”. “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết rất
nhiều vấn đề. Nhưng y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì”.
o Về mọi mặt, chỗ “độc
đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp. Với tư cách “ông
tham biện của toà Liêm phóng”, y đã “chiếu theo mặt hàng mà quảng cáo cho chính
sách thực dân và truyền bá phần lạc hậu nhất (kể cả chính kiến của Charles
Maurras) trong tư tưởng nước Pháp” (Ðặng Thai Mai, tr. 126).
Ở đây, chúng tôi không có tham vọng giải quyết
đầy đủ vấn đề Phạm Quỳnh, cũng không dám đứng ra bàn lại mọi chuyện.
Nhưng trước khi đi vào một điểm nhỏ thuần tuý
học thuật, chỉ xin phép nói là ngay với định đề ban đầu (Phạm Quỳnh đã “chọn
một chỗ đứng trong dơ bẩn”), chúng tôi đã thấy nên dè dặt.
Bởi nếu cho rằng tình cảm yêu nước có thể được
bộc lộ qua nhiều cách khác nhau và công nhận “hễ ai có đóng góp về vào việc
phát triển ngôn ngữ, nói chung là làm lợi cho đất nước về mặt văn hoá, đều đã
coi như có lòng với đất nước, có ý thức dân tộc”... thì mọi chuyện có
thể được nghĩ khác đi một chút.
Thậm chí, ngay cả khi đã kết luận hai năm rõ
mười rằng một người hỏng về lập trường chính trị, và có cuộc sống tạm gọi là dơ
bẩn theo nghĩa chính trị thì cũng không có nghĩa rằng mọi thứ người đó viết ra
đều là đổ xuống sông xuống bể cả.
Thái độ của lớp trí thực hiện nay ở Pháp và
Na-uy với di sản của L. F. Céline, K. Hamsun… chứng tỏ rằng ngày nay, hậu thế
vẫn có thể rút ra nhiều điều bổ ích từ trước tác của những kẻ từng đã phản quốc
và cộng tác với bọn phát-xít.
Xử lý cho thích đáng sự không đồng nhất - tức
cũng có nghĩa là sự độc lập tương đối và tách rời tương đối - giữa lập trường
chính trị và học thuật là khó khăn, nhưng cũng là cần thiết, khi nghiên cứu,
chúng tôi nghĩ vậy.
Mà trong lịch sử Việt Nam - trước tiên là
lịch sử tinh thần, lịch sử văn hoá - Phạm Quỳnh chính là một ví dụ tốt để thấy
rằng muốn khỏi bỏ sót từng đóng góp nhỏ, một thái độ phân tích cận nhân tình và
thấu đáo là cần thiết như thế nào.
Sau hết, có thực về học thuật, Phạm Quỳnh cũng
rất kém cỏi, một thứ con số không to tướng,
như một số người (chứ không chỉ riêng Ðặng Thai Mai) đã nói chăng?
Ở chỗ này tốt hơn hết, chúng tôi nghĩ là nên vận
dụng triệt để quan điểm lịch sử - một điều giới nghiên cứu khoa học xã hội ở ta
vẫn thường nói và sẵn sàng nói đi nói lại, nhưng trong lúc làm lại bị nhiều
thành kiến vướng víu hạn chế, nên không mấy khi vận dụng được một cách hợp lý.
Ðúng là Phạm Quỳnh viết khá tạp. Ông không để
lại những công trình dài hơi - chữ của Phạm Thế Ngũ - và thuần nhất như Trần
Trọng Kim hoặc Phan Kế Bính. Nhưng nên nhớ về mặt học thuật căn bản Phạm Quỳnh
là típ người thông tin, loại “thuật nhi bất tác”. Ðặt ông vào hoàn cảnh nước
Việt Nam đầu thế kỷ, người ta thấy ông khá nhạy bén và thực sự là đã giới thiệu
có phân tích có chọn lọc những tri thức phổ thông trong sách vở phương Tây
đương thời và trong không ít trường hợp có liên hệ với thực tế Việt Nam, thế là
được rồi, không nên do ghét ông mà đặt ra những yêu cầu quá cao như buộc ông
đưa ra những luận thuyết, những triết lý lớn rồi chê là ông không làm nổi.
Lại như bảo Phạm Quỳnh chỉ truyền bá phần
lạc hậu nhất trong tư tưởng của nước Pháp thì cũng không hẳn. Chẳng nhẽ do đăng
trên Nam Phong và do Phạm Quỳnh viết mà những bài lược
thuật tổng thuật nghiêm túc giới thiệu về Montesquieu, Rousseau, Voltaire,
Baudelaire, Renan, A. France... đều là không đáng đọc, là có tội?
Chúng tôi ngờ rằng ở đây, Ðặng Thai Mai đã để
ngòi bút của mình cho tình cảm nồng nhiệt chi phối nên có phần... quá
tay.
Nói riêng về trường hợp Charles Maurras
(1868-1952). Ðúng là trên Nam Phong số
115 ở các trang 218-220 của năm 1927 có thấy trích đăng một ít suy tưởng của
nhà văn này.
Nhưng chúng tôi tưởng là Nam Phong đã sòng phẳng khi trong lời dẫn ghi rõ
rằng Maurras là một kẻ đi ngược dòng trong đời sống tư tưởng ở Pháp, giữa thời
cộng hoà mà lại đi đề cao quân chủ, chẳng qua là ông có lối văn rất hay, lập
luận rất khúc chiết, nên cũng cần được biết tới.
Còn như bảo Nam Phong đăng
Maurras nghĩa là cùng tư tưởng với Maurras, như vậy chúng ta sẽ tính sao khi
thấy trước đó năm 1926 ở số 109, Nam Phong cho
in bản dịch bài viết của một học giả Nhật Bản viết về chủ nghĩa xã hội, nói tới
tính chất không thể tránh được - ngày nay ta gọi là tính tất yếu - của chủ
nghĩa xã hội và có dẫn lời của cả Mã-khắc-tư (Marx) lẫn Ân-cách-nhĩ-thị
(Engels)?
Theo lôgích trên mà suy, chúng ta sẽ bảo như thế
là Phạm Quỳnh cũng góp phần vào việc tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, hoặc là một
trong những người đầu tiên cho đăng trên tờ báo mình, những tài liệu về chủ
nghĩa xã hội chăng?
Tôi sợ rằng, nếu được sống lại, Phạm Quỳnh cũng
thấy cái mũ ấy to quá, không hợp!
Tóm lại, nếu được để phần lập trường chính trị
của Phạm Quỳnh sang một bên khi xét phần học thuật, và nếu chúng ta thực sự
sáng mắt sáng lòng, thật sự thanh thoát, công bằng trong cảm nhận, chúng ta sẽ
thấy phải ghi công cho ông nhiều hơn trước khi có sự định tội cần thiết.
Nên nhớ rằng ngay từ 70 năm trước, chính vào lúc
đi trên đất Pháp, Phạm Quỳnh đã nhận ra những chỗ yếu của văn hoá phương Tây.
Ông bảo nó là cái gì ma quái, “làm vạ cho
người đời khá nhiều”, và chính người phương Tây cũng chẳng sung sướng gì”.
Theo ông chúng ta không nên ngộ hoặc về nó (Pháp du hành trình nhật ký, Nam Phong, số 91, tr.12).
Ở một người mới 30 tuổi, một cách nhìn một tư
thế như thế là đàng hoàng là chững chạc. Tinh thần phê phán có lẽ là một trong
những nhân tố chính khiến cho ngay trên phương diện chất lượng các công trình
tiếp nhận văn hoá của Phạm Quỳnh vẫn có ít nhiều giá trị.
Còn như về mặt số lượng, ai cũng biết là vào
khoảng những năm hai mươi, khi Phạm Quỳnh đang viết nhiều viết khoẻ, nền học
thuật ở ta còn ở tình trạng rất phôi thai. Ðứng trước ngổn ngang công việc và
mọi khó khăn bày ra phía trước, ông có vai trò thật sự của một người mở đường.
Sự thao túng của ông đối với đời sống văn học công khai là điều ai cũng phải
công nhận kể cả người cho là hay lẫn người cho là dở. Sở dĩ đây đó một hai
người còn gọi ông là một thứ đạo sư của nền văn nghệ đương thời, là bởi lẽ đó.
IV.
Ðể diễn tả những cuộc gặp gỡ kỳ lạ mà cũng hứng
thú giữa các nền văn hoá khác nhau, ở nhiều nước trên thế giới, các học giả thường
viện dẫn đến khái niệm acculturation. Trong
tiếng Việt, có người dịch thuật ngữ đó là thụ ứng, người dịch
là hấp thụ, gần đây hơn lại thấy đưa ra những hỗn dung, tiếp biến, đan xen, giao thoa v.v...;
mấy cách dịch ấy chữ nào cũng có lý của nó, nên hãy tạm để đấy, điều quan trọng
hơn là cách hiểu về khái niệm. Bách khoa toàn thư Mỹ
định nghĩa acculturation “là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hoá khác nhau,
tiếp xúc trực tiếp và lâu dài với nhau, gây nên sự biến đổi trong dạng
thức văn hoá ban đầu của một hay cả hai bên "(Dẫn theo Hà
Văn Tấn, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật 4-1981.
Chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi).
Ðối chiếu với một định nghĩa nghiêm chỉnh như
thế, người ta thấy cuộc tiếp xúc giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá phương Tây
(trước tiên là văn hoá Pháp) trong một vài thế kỷ gần đây, nhất là cuối thế kỷ
XIX đầu XX, đáng được coi là một hành động acculturation điển
hình.
Trong bài này, sở dĩ không dùng những giao thoa, đan xen, mà chỉ dùng một chữ khá phổ biến là
chữ tiếp nhận, bởi lẽ, rõ ràng là trong quá trình tiếp xúc
mà chúng ta đang quan sát, sự biến đổi chủ yếu xảy ra với một bên (phía Việt
Nam), hơn là cả hai bên (cả phía Pháp).
Hơn thế nữa, phải nhận đó là một sự biến
đổi quá lớn, biến đổi hẳn trong dạng thức (pattern); sau khi tiếp xúc, văn hoá
Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn. Nhưng có hề gì! Theo các nhà lịch
sử văn hoá cho biết
+ hoà nhập, vừa là đặc trưng, là tính nội tại, vừa là điều
kiện sống còn của văn hoá.
+ Lịch sử mỗi nền văn hoá không chỉ là sự phát triển tự thân của
nó, mà còn là lịch sử của mối quan hệ giữa nó với các nền văn hoá khác.
Riêng ở Việt Nam lịch sử đã hai lần biết
tới một sự cấy ghép văn hoá ngoại lai như vậy, nhưng cả hai lần, văn hoá Việt
Nam đều không mất đi, không bị đồng hoá, trong khi cải biến vẫn giữ được sắc
thái của riêng mình.
Nếu sau khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa,
chúng ta vẫn có những thời kỳ phát triển độc đáo, như văn hoá Lý- Trần, văn hoá
cuối Lê đầu Nguyễn, thì sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn dưới ảnh hưởng
văn hoá Pháp, nền văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ vẫn đẻ ra được những đứa con
bụ bẫm, như nền tiểu thuyết hiện đại, phong trào Thơ Mới v.v.
Ngày nay, mỗi chúng ta đều thấy hết sức tự nhiên
khi khoác lên người những bộ âu phục với complet, cravate, chemise... Chúng
ta tưởng từ lúc khai thiên lập địa, người Việt đã ăn mặc vậy. Nghe nói tới nỗi
băn khoăn của lớp người đầu thế kỷ khi phải lần đầu cởi bộ khăn đóng áo dài,
nhất là cắt cái búi tó sau gáy, chúng ta hơi ngạc nhiên. Nhưng quả thật là
những bước đầu Âu hoá đã xảy ra với muôn vàn lúng túng. Và những điều ấy cũng
đúng với công cuộc biến đổi trong văn hoá tinh thần, mà xã hội ta ở đầu thế kỷ
thể nghiệm.
Ở khu vực này, trong mỗi con người thường
khi dồn tụ bao nhiêu mặc cảm, sự biến đổi xảy ra gián tiếp chậm chạp, có khi
người này cấy trồng, người kia gặt hái, nhưng như người ta vẫn nói, “có những việc làm thì rất khổ, không làm lại còn khổ hơn”
bởi vậy phải có người làm thì lịch sử mới tiến lên được.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, Phạm Quỳnh đáng
được coi là nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp nhận văn hoá vừa nói ở trên,
ít ra là ở giai đoạn đầu của sự tiếp nhận ấy. Người ta thường chỉ nghĩ đến ông
như một trong những người có cơ sở Tây học vững chắc, song sự thực là trong cái
môi trường văn hoá Hán Việt rộng lớn lúc ấy, Hán học đã thấm vào ông, cả hai
nền văn hoá Ðông Tây kết hợp ở ông khá nhuần nhị.
Tiếp nối sự nghiệp của những Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của... ông thuộc loại xây nền đắp móng cho nền văn hoá mới.
Không hề có sự chuyển giao chính thức, song ông
đã làm những việc cụ thể để biến ước mơ của các nhà nho đầu thế kỷ, như Phan
Chu Trinh và các yếu nhân Ðông Kinh Nghĩa Thục, trở thành hiện thực.
Khốn thay những điều tâm huyết ấy lại được Phạm
Quỳnh thực hiện trong vòng tay của kẻ cướp nước, mối quan hệ của ông với nhà
nước bảo hộ quá gần gũi nó là cái điều không thể chấp nhận với hầu hết các nhà
trí thức thuộc thế hệ ông cũng như các thế hệ tiếp.
Ở trên chúng tôi đã nói tới cách nhìn sổ
tuột của một học giả đáng kính với mọi đóng góp học thuật của Phạm Quỳnh. Thật
ra, thái độ đó của Ðặng Thai Mai được khởi đi từ Ngô Ðức Kế và còn tiếp nói với
nhiều người khác, kể cả Thiếu Sơn, để rồi bao trùm trong giới nghiên cứu ở Hà
Nội và kéo ra đến tận Nguyễn Văn Trung ở Sài Gòn trước 1975, tóm lại là hầu như
suốt cả thế kỷ XX. Trong hoàn cảnh một nước luôn luôn có những chuyện không ổn
trong quan hệ với các quốc gia bên ngoài, một thái độ như thế là dễ hiểu.
Trong hàng ngũ trí thức Việt Nam, còn bao người
khác, tuy không nói ra, nhưng sẵn sàng đứng chung tên với các lối lên án Phạm
Quỳnh của Ngô Ðức Kế, và tuy vẫn đọc Nam Phong, nhưng
không bao giờ tha tội cho chủ bút Nam Phong!
Có điều, đọc kỹ thì cũng thấy là Phạm Quỳnh chưa
bao giờ hoàn toàn “mất hết” trong tâm trí giới nghiên cứu, và những ý đồ nhằm
xác định vai trò của ông trong lịch sử, cũng như đánh giá đúng công lao của ông
trong công cuộc xây dựng văn học vẫn thu hút cố gắng của nhiều người.
Ở Sài Gòn trước 1975, Linh mục Thanh Lãng đã sớm
đứng ra tranh cãi với Nguyễn Văn Trung, còn nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ thì
dành cho ông rất nhiều cảm tình, trong số các tác gia được Phạm Thế Ngũ viết
thành những chương riêng trong bộ Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên, Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong được
dành cho một số trang nhiều nhất để nghiên cứu kỹ càng nhất.
Còn ở Hà Nội, chúng tôi chưa có dịp tìm hiểu đầy
đủ về các công trình nghiên cứu từ 1960 về trước, song có điều chắc là từ 1961
trở đi, sau câu nói kiểu văn bia của Ðặng Thai Mai rằng Phạm Quỳnh, đó là một “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây và cũng có đủ
chữ Tây để loè người “An Nam”, thì không
thấy ai nói khác. Có điều có thể không nói ra, mà vẫn nghĩ khác, hoặc lờ mờ cảm
thấy cần phải nghĩ khác.
Mở đầu cuốn sách Văn thơ
cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX ( in lần đầu 1960) có mấy
trang mang tên Cùng các bạn đọc, trong đó, Ðặng
Thai Mai trình bày ý hướng chính của mình trong từng chương sách.
Ðiều kỳ lạ là với chương VI, chương dành để viết
về văn học công khai, tác giả có một giọng điệu mềm mại khác hẳn, so với những
gì ông viết trong sách:
“Quyền lãnh đạo văn hoá đã vào tay bọn
thống trị nước ngoài cho nên cái mà người ta gọi là văn học Việt Nam trên thị
trường hồi này chỉ có thể phát triển theo đường lối của chủ nghĩa thực dân. Do
đó mà cái thiện chí của những người muốn xây dựng văn học nước nhà bằng phương
tiện công khai, cũng bị hạn chế”.
Cố nhiên, trung thành với chính mình, Ðặng Thai
Mai không gọi đích danh Phạm Quỳnh. Nhưng “những người muốn xây dựng văn học
nước nhà bằng phương tiện công khai” là ai? Trong thời kỳ mà Ðặng Thai Mai đem
ra phân tích, văn học Việt Nam còn rất phôi thai, bởi vậy khi đề cập tới những
nhân tố đóng vai trò chủ đạo trong dư luận xã hội, người ta nhất thiết phải kể
nhóm Nam Phong và những người chịu ảnh hưởng của Nam Phong.
Biết đâu là nếu còn sống đến ngày nay (1992),
qua những thăng trầm của chiến tranh và hậu chiến, Ðặng Thai Mai sẽ
cho mang bản án ra phúc thẩm.
Nhưng thôi, dự đoán vậy chỉ để cho thêm thấu
đáo, sự thực là những ghi nhận tích cực với các đóng góp của Phạm Quỳnh còn là
quá ít.
Vậy nên dừng lại ở công thức nào bây giờ?
Chúng tôi đã băn khoăn nhiều về vấn đề này, để
rồi sau hết, trong phạm vi các tài liệu mà bản thân có dịp đọc, thấy trên nét
lớn, nên đồng ý với cách đánh giá của Nguyễn Trần Huân trong Văn học Việt Nam dẫn luận (Introduction à la littérature Vietnamienne, P. 1969) mà
Nguyễn Văn Trung đã dẫn lại trong cuốn Chủ đích Nam Phong (Nam
Sơn, Sài gòn, 1975), đoạn dẫn sau đây liên quan chủ yếu đến tờ tạp chí, nhưng
ai cũng biết, nói tới tờ tạp chí ấy là nói tới chủ nhân kiêm chủ bút của nó.
«Những người Việt Nam yêu nước đã có thể dùng
tạp chí để bênh vực những quyền lợi của văn hoá Việt Nam và Á Ðông… và sự xoay
sở tế nhị của Phạm Quỳnh để dung hoà đôi bên, rút cục có lợi cho Việt Nam.
… Sinh ra để ca tụng những ân huệ của nước Pháp
và sự cao cả của nó trong thế giới, báo Nam Phong đã
vượt mục đích đó, và tất cả hy vọng thầm kín của những cộng tác viên Việt Nam
đã được thoả mãn."
… Không phải là Nguyễn Trần Huân không biết
việc Nam Phong ca tụng Pháp. Nhưng ông khẳng định dứt
khoát:
" Ðó là một sự xấu xa cần thiết tương đối nhỏ bé, so với công
lao to tát mà tạp chí đã làm cho tiếng Việt.»
(Dẫn theo Nguyễn Văn Trung, tr. 37-38, VTN gạch
dưới.)
Mấu chốt vấn đề ở đây, suy cho cùng, vẫn là cách
hiểu của mỗi người nghiên cứu về bản chất của văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá
và công cuộc cứu nước.
Phạm Quỳnh đã nhất quán với chính mình,
hành động của ông là phù hợp với quan niệm của ông về văn hoá, mà ông đã tiếp
nhận được của sách vở phương Tây.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ hiểu vấn đề như ông,
như các nhà nho của phong trào Duy tân đầu thế kỷ, hay trở lại với cách hiểu
của các nhà nho yêu nước như Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Thượng
Hiền v.v…, đó là quyền của chúng ta.
Trở lên, trong khi đáng lẽ phải nói riêng về
Phạm Quỳnh, chúng tôi cố ý nhắc tới các sĩ phu tiên tiến đầu thế kỷ, trong đó
có Phan Chu Trinh và các yếu nhân của Ðông Kinh Nghĩa Thục.
Không phải người viết định nói vơ vào cho nhân
vật mang ra bàn luận, và cố kiếm chác cho ông chút vốn liếng chính trị; chẳng
qua, hiện tượng Phạm Quỳnh cũng như các hiện tượng xã hội khác, bao giờ cũng có
tính cách liên tục về mặt lịch sử.
Là người nhạy cảm với hoàn cảnh, Phạm Quỳnh chắc
không thể bỏ qua không biết tới những kiến giải của các bậc tiền bối và những
người đương thời về các vấn đề quan trọng của xã hội, rồi sau đó, mới tính
chuyện đi tiếp.
Cho nên, chúng tôi cho rằng nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Trung đã nói đúng sự thực khi viết trong các cuốn Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, huyền thoại và hiện thực và Chủ
đích Nam Phong rằng, về mặt văn hoá không thể đi
thẳng từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của tới Ðông Dương tạp chí, Nam
Phong, mà nhất quyết là phải qua Ðông Kinh Nghĩa Thục, và nói
giản lược thì Nam Phong đó là “một Ðông Kinh Nghĩa
Thục do Pháp lập ra” (Nguyễn Văn Trung, tr. 169).
Không khó khăn gì nếu muốn thấy giữa hai bên có
những chỗ khác: trong khi Ðông Kinh Nghĩa Thục chỉ
nói tới phương Tây, thì Phạm Quỳnh nói thẳng ra là Pháp, Ðại Pháp; trong
khi Ðông Kinh Nghĩa Thục muốn đi tới một cái gì giống
như chính thể cộng hoà (“Vua là tượng gỗ dân là thân trâu” - Ðề tỉnh quốc dân ca), thì Phạm Quỳnh còn lấn bấn ở chủ
nghĩa tôn quân, - khi Nam Phong mới
khai trương đã nói tôn quân, mười lăm năm sau, bao nhiêu nước chảy qua cầu,
song có lẽ là cần biện hộ cho việc vào kinh tham chính, lại nói tôn quân.
Sẽ rất lý thú, nếu so sánh các tư tưởng của Phạm
Quỳnh với tư tưởng Ðông Kinh Nghĩa Thục,
song ngay từ giờ, nếu có một sự so sánh công bình, khoa học, cận nhân tình,
thông cảm nữa, thì, hơn bù kém, sẽ có lợi cho Phạm Quỳnh. Thậm chí chúng tôi
còn muốn nghĩ tới một cái gì mà thật là không quen thật là ngần ngại khi phải
nói ra, nhưng trong thực tế đã vậy: Phạm Quỳnh có yêu nước, và đó
là một kiểu yêu nước ở thời của ông, nó giúp cho ông thấy ý nghĩa của đời sống
và thúc đẩy ông làm việc.
Kết luận khái quát: Khi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hoá, trở
thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và
sâu sắc với dân tộc, với đất nước.
Ấy là niềm tin đến với chúng tôi khi lần giở lại Nam Phong.
Nó cũng là nhân tố giúp chúng tôi yên tâm khi
tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh trong sự tiếp nhận văn hoá phương Tây và
góp phần hình thành nền văn hoá mới của dân tộc trong thời hiện đại.
Tài liệu tham khảo chính
- Tạp chí Nam Phong
- Phạm Quỳnh Thượng chi văn tập tái bản lần thứ nhất - Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962
- Ðặng Thai Mai - Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX - bản in lần thứ ba, H. 1974
- Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng ở Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám tập II , Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, H. 1975
- Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam 1932-1941 bản của nhà xuất bản Văn học, H. 1989
- Nguyễn Văn Trung - Chủ đích Nam Phong, Sài Gòn, 1975
- Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên t. III, Sài Gòn, 1965
- Thiếu Sơn - Phê bình và cảo luận, Hà Nội, 1933
- Tsubôi - Nước Ðại Nam đối diện Pháp và Trung Hoa, TP. Hồ Chí Minh, 1990.
[1] Những tài liệu tham khảo chính dùng để viết bài
này, chúng tôi sẽ nêu ở phần cuối với đầy đủ tên tác giả, tên sách, nơi và năm
xuất bản. Sau các đoạn trích, chỉ xin nêu tóm tắt tên tác giả với số trang. Ví
dụ ghi Hoài Thanh tr. 18 ở đây, tức là trích ở Thi Nhân
Việt Nam 1932-41, bản in ở Hà Nội năm 1989, tr. 18. Các trích dẫn
dưới đây, đều theo lệ đó.
No comments:
Post a Comment