Tác giả: PGS. TS Mai Quỳnh Nam, Viện Nghiên cứu con người, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Nguồn: vanhoanghean.com.vn
Dư luận xã hội
là một trong những biểu hiện sớm nhất của ý thức xã hội. Bản chất ý kiến của
con người được nghiên cứu từ thời cổ đại. “Quan điểm triết học của Parmenid,
Empedocl, Democrit đã đối lập khái niệm “ý kiến” và “tri thức”. Các học giả này
coi ý kiến là tri thức giả, là cái gì đó không rõ ràng, không bền vững, đối lập
với “sự thật hợp lý”. Nhưng ngay sau Platon và Aristot, một quan điểm khác được
đề xuất: ý kiến là cái gì đó ở giữa tri thức và niềm tin. Nó dường như là khâu
liên kết giữa cảm xúc thực và chân lý”[1].
Cuộc đấu
tranh của hai khuynh hướng này vẫn tiếp tục ngay cả khi trong lĩnh vực nghiên cứu
triết học có hiện tượng được gọi là dư luận xã hội. Trong quan điểm của các đại
diện triết học cổ điển Đức, chẳng hạn, ở công trình Triết học pháp quyền,
Hêghen đã đưa ra một quan niệm tương đối mở rộng của dư luận xã hội bao gồm định
nghĩa, con đường hình thành và các đặc điểm của nó.
Hêghen xem
xét dư luận xã hội trong mối tương quan với việc phân tích thể chế nhà nước,
nơi ông tách bạch lập pháp và hành pháp. Vai trò cơ bản của yếu tố này là ở chỗ,
trong đó, ý thức cộng đồng tồn tại như một tổng thể kinh nghiệm các quan điểm
và tư tưởng của nhiều người. Tổng thể này ở dạng “ý nghĩ lành mạnh của con người”
gắn với sự phản ánh “tình trạng chung của công việc”. Hêghen tách bạch cái hợp
nhất có trong tổng thể các ý kiến cá nhân về công việc chung, nói cách khác, về
các vấn đề gây nên mối quan tâm chung. Tư tưởng này được thể hiện rõ hơn trong
định nghĩa: Tự do chủ quan, hình thức là ở chỗ những cá nhân có và thể hiện ý
kiến riêng của mình, suy luận về các công việc chung và đưa ra lời khuyên về
các công việc đó, thể hiện trong cái tập hợp được gọi là dư luận xã hội.
Hêghen xác định
cơ chế chủ yếu của việc hình thành dư luận xã hội là thảo luận. Chính trong thảo
luận, trao đổi đã cho phép tách ra: (1) Cái chung có trong từng ý kiến
riêng, (2) Thảo luận đã nhân rộng tỉ trọng hợp lý của ý kiến. Chỉ
thông qua công luận - theo tác giả Triết học pháp quyền - dư luận xã hội đi đến
các tư tưởng chân chính, làm cho có thể suy luận về chúng một cách đúng đắn.
Cùng với việc
đề xuất cơ sở hợp lý của dư luận xã hội và sức mạnh của nó, Hêghen lại đối lập
ý kiến của dân chúng với thể chế nhà nước, ở đó, người thể hiện quyền lực cao
nhất là nhà vua. Hêghen cũng chỉ ra rằng trong dư luận xã hội “chân lý và những
sai lầm vô tận liên kết với nhau”, nó không phải là “chuẩn mực cho cái mà ta cần
trên thực tế”, “quần chúng không thể hiểu được” phương pháp hiểu biết, suy luận
các hành vi của mình...”[2].
Hêghen đã giải
thích sự mâu thuẫn hiển nhiên trong suy luận của mình. Theo ông, bản chất của dư
luận xã hội không thể được nhận thức từ sự thể hiện hiện thực của nó. Trong dư
luận xã hội có cả cái thật và cái giả, nhưng “tìm ra được chân lý trong nó là
công việc của một người vĩ đại”. Vì “thực thể chỉ tồn tại từ mình”, và ông đi đến
kết luận như sau: dư luận xã hội không có trong mình cả quy mô suy tàn lẫn khả
năng nâng khía cạnh thực thể từ bên trong mình lên tầm cao của tri thức nhất định...
độc lập với nó là điều kiện hình thức đầu tiên để hoàn thành một cái gì đó vĩ đại
và đúng đắn cả trong thực tế lẫn trong khoa học. T uy tạo ra một bước ngoặt
cách mạng trong triết học bởi những đóng góp về phép biện chứng, song Hêghen
không vượt qua được tư tưởng bảo thủ bám chặt vào nền quân chủ hùng mạnh.
Những tư tưởng
của Hêghen gắn với việc công nhận sức mạnh của trí tuệ tập thể đã được tiếp tục
nghiên cứu rộng rãi trong các công trình của những nhà luật học, trước tiên là ở
châu Âu giữa thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, mà đại diện là luật gia người Đức
Holcendorff, nhà tội phạm học và xã hội học người Pháp Tard, giáo sư luật đại học
người Nga Chvostov. Họ đều công nhận “sức mạnh tinh thần” của dư luận xã hội, mặc
dù trong nhiều điều, họ không thể giải thích được nguồn gốc của nó.
Bản chất của dư
luận xã hội không thể được khám phá từ chính nó. Để giải quyết vấn đề tương đối
riêng của dư luận xã hội cần thiết phải khám phá những quy luật chung của xã hội
loài người, của các quy luật nhận thức. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và
Ăng ghen đã khám phá ra những quy luật này, điều đó cho phép mở đầu những
nghiên cứu bản chất của dư luận xã hội từ những quan điểm thực chất khoa học.
Cụ thể hóa
câu hỏi chủ yếu của triết học ứng dụng trong xã hội, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác nhận thấy rằng: ý thức xã hội chính là sự phản ánh tồn tại xã hội,
Mác và Ăngghen cho rằng: chúng ta nâng từ mặt đất lên bầu trời, nghĩa là chúng
ta xuất phát không phải từ những gì người ta nói, tưởng tượng, hình dung,... đối
với chúng ta, điểm xuất phát là chính những người đang hoạt động và từ quá
trình sống thực của họ, chúng ta rút ra cả sự phát triển những phản ánh tư tưởng
của quá trình sống đó. Như vậy, người ta đã xác nhận rằng bất cứ sự xuất hiện
nào của ý thức xã hội (bao gồm cả dư luận xã hội) là “sự bay hơi theo cách của
mình” trong quá trình sống vật chất.
Lời giải này
cho câu hỏi chính của triết học, như ta biết có hai mặt: ý thức xã hội phản ánh
tồn tại xã hội và tồn tại xã hội xác định ý thức xã hội. Do đó, dư luận xã hội
có thể được phân tích về mặt nhận thức luận và cả về mặt xã hội học. Cả hai
cách đề cập này đã được các nhà xã hội học sử dụng tích cực khi nghiên cứu dư
luận xã hội và đã đặt nền móng vững chắc để giải quyết nhiệm vụ phức tạp này.
Chẳng hạn, khi nghiên cứu khía cạnh nhận thức luận của dư luận xã hội, người ta
đã nhấn mạnh ít nhất 3 điểm quan trọng của dư luận xã hội: (1) phản ánh thực tế, (2) “
đi vào” mỗi dạng ý thức xã hội, và (3) bao gồm cả nhận thức thông thường
lẫn nhận thức lý thuyết. Sự tương tác của các hình thức nhận thức xã hội và dư
luận xã hội phụ thuộc trực tiếp vào các yếu tố xã hội, vào trình độ phát triển
của xã hội. Người ta biết rằng dư luận xã hội là một trong những biểu hiện sớm
nhất của ý thức xã hội. Ăngghen, trong tác phẩm Nguồn gốc gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước đã viết : “Chế độ thị tộc lớn lên từ xã hội không biết đến
những mâu thuẫn bên trong và chỉ thích nghi với xã hội đó. Chế độ này không có
một phương tiện cưỡng bức nào khác ngoài dư luận xã hội”.
Dư luận xã hội
phát triển tương đối độc lập với các hình thức ý thức xã hội. Việc nó “đi vào”
mỗi dạng ý thức xã hội mang tính lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là việc xâm
nhập của dư luận xã hội vào các dạng ý thức xã hội khác nhau ở giai đoạn phát
triển hiện nay là kết quả tác động cả yếu tố xã hội lẫn yếu tố nhận thức.
Cần phải tính
đến phương diện xã hội khi giải quyết vấn đề nhận thức luận về quan hệ giữa cái
thực và cái giả trong dư luận xã hội. Vấn đề không chỉ ở chỗ trong dư luận xã hội
cái thực và cái giả xen kẽ nhau, mà cả ở chỗ quan hệ giữa chúng như thế nào?
khuynh hướng thay đổi của nó, các yếu tố ảnh hưởng đến nó ra sao? Người ta nhận
thấy rằng không nên chỉ giới hạn ở việc đối lập nó với ý thức khoa học (chẳng hạn,
trong khoa học có thể có những quan điểm, lý thuyết sai trái,...). Sự phê phán
đó còn cần phải bao gồm những giải thích căn nguyên của dư luận xã hội trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định vì, những điều kiện xã hội có tác động quyết
định lên mức độ tương ứng của sự phản ánh thực tế trong dư luận xã hội.
Một vấn đề
khác hết sức quan trọng là cần phải giải thích dư luận xã hội tác động lên hoạt
động thực tiễn của con người như thế nào? bằng cách nào? với những đặc điểm
nào?
Sự phát triển
của dư luận xã hội trong thời gian gần đây trực tiếp gắn liền với nhu cầu thực
tế, đã dẫn đến việc tích lũy những số liệu thực nghiệm rất lớn và việc đưa ra
hàng loạt luận điểm lý thuyết. Tuy vậy, sự gia tăng tri thức này mang tính thất
thường và liên quan đến từng mặt riêng biệt về bản chất của dư luận xã hội, và
đến cả quá trình hình thành dư luận xã hội. Song song với quá trình này, người
ta lại phát hiện một khuynh hướng chung thể hiện ở chỗ sao cho một mặt, làm bộc
lộ chính đặc thù của dư luận xã hội một cách rõ nét hơn, và mặt khác - xác định
mối quan hệ giữa dư luận xã hội với những hiện tượng hay quá trình khác một
cách cụ thể hơn. Trong bối cảnh đó, rõ ràng là lại một lần nữa cần làm rõ bản
chất của dư luận xã hội.
Từ những năm
60 của thế kỷ trước, các nhà xã hội học đã coi dư luận xã hội chủ yếu như một
trạng thái của ý thức và do đó đã phân tích nó trong cấu trúc của ý thức xã hội.
Cách tiếp cận ấy tìm được sự phản ánh tương ứng trong những định nghĩa của dư
luận xã hội ở hàng loạt ấn phẩm của thời kỳ này.
Phân tích dư
luận xã hội trong khuôn khổ cấu trúc ý thức xã hội dứt khoát dẫn đến chủ yếu là
nghiên cứu phương pháp và hình thức phản ánh hiện thực trong các tranh luận tập
thể của con người. Rõ ràng là hướng này rất có hiệu quả và cần thiết, nhưng nó
vẫn chưa đủ khi xuất hiện vấn đề về tác động thực tế của dư luận xã hội lên thực
tiễn và về năng lực cải tạo thực tiễn.
Mặc dù các
nhà xã hội học coi dư luận xã hội không phải là cái gì đó thuần túy tinh thần,
mà là một cấu tạo tinh thần - thực tế, người ta vẫn rất ít chú ý đến việc khám
phá “khía cạnh thực tế”, khía cạnh này thực ra chỉ được nhắc đến xuất phát từ
những quan sát thực nghiệm. Tuy nhiên, người ta biết rằng, dư luận xã hội luôn
luôn và trước hết gắn với việc con người đánh giá một hiện tượng, một quá trình
nào đó. dư luận xã hội gắn với việc thể hiện lợi ích của các nhóm xã hội lớn.
Như vậy, dư luận xã hội gắn với các quan hệ xã hội. Điều này là cơ sở để xem
xét dư luận xã hội không chỉ trong cấu trúc ý thức xã hội mà cả trong cấu trúc
quan hệ xã hội. Và khi đó, bản chất của dư luận xã hội có thể định nghĩa như là
sự tương tác, mối quan hệ của con người trên cơ sở sự thống nhất hoặc sự khác
biệt trong đánh giá của họ về những hiện tượng cấp bách của thực tiễn, có ý
nghĩa xã hội.
Rõ ràng, sự
chuyển dư luận xã hội từ trạng thái phản ánh đến trạng thái cải tạo thực tế (từ
lời nói đến việc làm) gắn liền với quá trình khách thể hóa nó trong hệ thống
các quan hệ xã hội, có cơ sở chuẩn mực vào thời điểm đánh giá.
Dư luận xã hội
không phải là một kiểu hoặc một loại quan hệ xã hội đặc biệt, mà chỉ là một yếu
tố, một thời điểm, một mặt của các quan hệ đó. dư luận xã hội xuất hiện như một
phản ánh quá trình sống vật chất và thông qua ý thức con người và tác động vào
hệ thống các quan hệ thượng tầng, tư tưởng trong những điều kiện nhất định. Nội
dung của dư luận xã hội như một yếu tố, một mặt của các quan hệ thượng tầng, tư
tưởng, là sự tác động của con người với mục đích tạo ra sự nhất trí trong đánh
giá một hiện tượng, một quá trình xã hội cấp bách và cả thái độ tương ứng với sự
đánh giá đó trong hoàn cảnh xã hội cụ thể.
Cơ sở của việc
xuất hiện dư luận xã hội như một mặt của các quan hệ xã hội trước hết xuất phát
từ nhu cầu thể hiện lợi ích xã hội. Trong xã hội học, người ta chia ra những lợi
ích gần nhất, lợi ích từng phần, tạm thời và những lợi ích cơ bản, lâu dài. Dư
luận xã hội gắn với cả loại lợi ích thứ nhất lẫn thứ hai. Tuy nhiên, mối liên hệ
với loại lợi ích thứ nhất rõ ràng hơn, nhìn thấy được, cảm thấy được. Động thái
của dư luận xã hội thường xuất hiện trên cơ sở hiện thực hóa những lợi ích cấp
bách nhất.
Dư luận xã hội
phản ánh và thể hiện các quan hệ xã hội. Quá trình này có thể chia thành: (1) không
hình thức và (2) hình thức. Ở phương diện không hình thức có thể là “những
quy tắc không được viết ra”, nhưng phương tiện thứ hai là những cấu trúc hình
thức chính thức (cơ quan, tổ chức,...) thể hiện dư luận xã hội ở mức độ chính
thức.
Thực tế cho
thấy dư luận xã hội có tiềm năng nhận thức to lớn, nghĩa là có khả năng phản
ánh trung thực bản chất của hiện tượng xung quanh. Kinh nghiệm đã được nhiều lần
kiểm chứng của quần chúng, thể hiện ở ý kiến tập thể của họ luôn luôn cố định
chính xác hiện tượng hay quá trình này hoặc hiện tượng hay quá trình khác của
thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu dư luận xã hội, trong ý nghĩa nhất định, là
nghiên cứu hiện thực tồn tại.
Trên cơ sở phản
ánh nhận thức, dư luận xã hội còn cho thấy khả năng đánh giá thực tế.
Nhờ có dư luận
xã hội mà một trong những chức năng của ý thức xã hội trở thành hiện thực, cụ
thể là chức năng tiền đề, chức năng này xác định cách đánh giá tình hình và xác
định sự lựa chọn hành vi của con người. Sự đánh giá trong dư luận xã hội không
phải là trừu tượng, nó phản ánh quan điểm của các nhóm xã hội khác nhau[3].
Như vậy, tính
đặc thù của dư luận xã hội là ở chỗ nó không chỉ là sự tồn tại có ý thức, mà
còn là sự tồn tại có đánh giá. Dựa trên những lập luận này, có thể xác nhận rằng
dư luận xã hội là sự thể hiện (trạng thái) của ý thức xã hội trong đó phản ánh
trước hết là sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các
hiện tượng, các sự kiện đại diện cho lợi ích xã hội cấp bách trên cơ sở các
quan hệ xã hội đang tồn tại. Tính đặc thù của bản chất dư luận xã hội thể hiện,
như đã nói ở trên, nó không chỉ thuần túy tinh thần mà là một cấu trúc tinh thần
- thực tế. Trong dư luận xã hội, giống như trong một số hình thức thể hiện của
ý thức, có hai mặt của một bản chất, một mặt, dư luận xã hội là sự thể hiện ý
thức, mặt khác, bản chất xã hội của dư luận xã hội thể hiện ở hoạt động thực tế
của con người. Điều này phụ thuộc vào đặc trưng của các phương pháp nhận thức
(khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và tinh thần - thực tế) để hiểu được thế giới. dư
luận xã hội rõ ràng là gắn với phương pháp sau cùng.
Hai mặt nói
trên trong dư luận xã hội được sử dụng trong phân tích thực nghiệm xã hội trên
mức độ lời nói và mức độ hành vi. Sự khám phá bản chất dư luận xã hội mở ra con
đường để nhận thức nội dung của nó. Nội dung này bao gồm tập hợp các yếu tố
khác nhau, thường là mâu thuẫn nhau, nói chung là có đặc điểm cảm xúc, hợp lý
và ý chí. Cốt lõi trung tâm của dư luận xã hội là sự đánh giá xã hội. Sự đánh
giá xã hội là sự thể hiện một trong các kiểu quan hệ của chủ thể với khách thể,
mối quan hệ thể hiện ở chỗ, chủ thể xác định những tương ứng của khách thể hoặc
các tính chất hay các mặt riêng biệt của nó bằng những tiêu chuẩn do chủ thể đặt
ra. Sự đánh giá xã hội của các hiện tượng khác nhau có mức độ hợp lý khác nhau.
Những sự đánh giá này có thể là tích cực (khuyến khích), tiêu cực (phê phán),
trung tính (những đánh giá trong hàng loạt trường hợp có thể là những đánh giá
cân bằng). Thông thường, hoạt động đánh giá đi cùng với những cảm xúc (sung sướng,
thân thiện, thù địch...). Tuy nhiên, theo thời gian cảm xúc yếu đi và quan hệ với
hiện tượng, sự kiện được thể hiện chủ yếu nhờ sự đánh giá lý tính.
Một trong những
đặc điểm quan trọng trong sự đánh giá của dư luận xã hội là cường độ của nó. Cường
độ này cho thấy độ bền vững về sức mạnh của việc thể hiện quan hệ giữa con người
với các sự kiện hoặc hiện tượng. Thang cường độ có thể chi tiết khác nhau (phụ
thuộc vào mục đích nghiên cứu), nhưng những nấc giới hạn của nó luôn là đồng
tình (hoặc phê phán) hoàn toàn.
Sự đánh giá
xã hội thể hiện mối quan hệ ở dạng khuyến khích hay phê phán, ở những mức độ
khác nhau đều tạo ra áp lực cho hành động thực tế. Nhà nghiên cứu người Nga Korobeinhicov
cho rằng: “Khi có nhu cầu và hoàn cảnh thỏa mãn nhu cầu đó, trong chủ thể xuất
hiện một trạng thái đặc thù có thể định nghĩa như sự sẵn sàng, như phương châm
thực hiện một hoạt động nào đó để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của nó”[4].
Dư luận xã hội
không chỉ là suy luận của con người về các sự kiện, các hiện tượng xã hội tạo
nên mối quan tâm chung có tính chất cấp bách, mà còn là một cơ chế lịch sử cụ
thể của mối quan hệ giữa suy luận và hành động của con người, là trạng thái
“làm việc” của ý thức. Định hướng con người làm họ thể hiện ý kiến của mình
trong các hành vi. Bởi vậy, không có định hướng thì không thể xem xét hiện tượng
dư luận xã hội trong các quá trình tâm lí của nhóm lớn.
Từ những kiểu
định hướng khác nhau, dư luận xã hội gắn bó chặt chẽ nhất với cái gọi là những
định hướng xã hội mà con người thường nhận thức được và là định hướng chung cho
cá nhân trong quan hệ với những khách thể xã hội. Các định hướng xã hội xuất hiện
trên cơ sở tác động của thực tế xã hội và của những người khác lên con người.
Trong sự tương tác đó, những định hướng giá trị của các cá nhân như những thành
viên của các nhóm và của xã hội nói chung được phản ánh. Có hai loại giá trị:
các giá trị được phê chuẩn và nuôi dưỡng bởi hệ thống phương tiện của các thể
chế chính thức và cả các giá trị ở mức độ ý thức thông thường. Trong dư luận xã
hội, cả hai loại giá trị này cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Những định hướng
có giá trị thay đổi dưới tác động của những điều kiện khách quan và những yếu tố
chủ quan đều được phản ánh trong trạng thái dư luận xã hội.
Trong số những
yếu tố tâm lý - xã hội của dư luận xã hội, định hướng xã hội được hiểu như một
tâm trạng cảm xúc ủng hộ hoặc phê phán. Cả hai trạng thái này đều có vị trí
quan trọng. Mặc dù rất linh hoạt và năng động, tâm trạng này có độ ổn định nhất
định. Hoạt động đánh giá của con người là cơ sở hình thành và hoạt động của dư
luận xã hội không chỉ gắn với những đặc tính tâm lý xã hội của con người mà còn
gắn với khả năng nhận thức của họ. Đã có sự đối lập ý kiến với tri thức trên cơ
sở là tri thức cho phép khám phá ra chân lý khách quan, còn ý kiến thể hiện
quan hệ chủ quan của con người. Cách giải thích này là sự tuyệt đối hóa về mặt
nhận thức luận. Ở đây cần tính đến đặc thù của ý kiến được thể hiện ở chỗ ý kiến
là khâu cần thiết trong quan hệ giữa chủ thể và khách thể hoạt động, trong quan
hệ của con người trong nhóm xã hội đối với hiện thực khách quan. Con người
không chỉ nhận thức thế giới xung quanh mà còn biến đổi nó. Trong quá trình này
con người sử dụng những sự đánh giá bao gồm không chỉ cảm xúc mà còn cả tri thức
về khách thể của ý kiến. Bởi vậy, dư luận xã hội không thể tồn tại mà không có
những yếu tố của cả tri thức đời sống lẫn tri thức lý thuyết và khoa học - thực
nghiệm.
Ý kiến được
hình thành trên cơ sở tri thức về sự vật. Sự hình thành dư luận xã hội do vậy,
khác với quá trình nhận thức. Bởi vì mục đích của ý kiến không phải là nhận thức
toàn diện sự vật, nhận ra chân lý khách quan, mà là sử dụng tri thức có được để
hình thành sự đánh giá, để tạo ra quan hệ khuyến khích hay phê phán khách thể của
ý kiến. Vì thế, tri thức có trong dư luận xã hội khác hẳn về thể tích lẫn mức độ
bởi tính đặc thù của hiện tượng dư luận xã hội. Việc đưa tri thức vào cấu trúc dư
luận xã hội gắn với một đặc điểm quan trọng của nó là tính thẩm quyền.
Ở đây có sự
tương tác giữa ý kiến và tri thức. Những nghiên cứu thực nghiệm của các nhà xã
hội học Mỹ cho thấy trong sự đánh giá luôn có tri thức, nhưng có tri thức không
phải lúc nào cũng dẫn đến việc xuất hiện sự đánh giá hay ý kiến. Ngoài những yếu
tố của tri thức đúng đắn, trong cấu trúc của dư luận xã hội còn có cả khái niệm
- hình ảnh khái quát của nhiều ấn tượng cảm xúc, tri thức nhìn thấy được thường
vẫn xuất hiện do tưởng tượng. Con người hiện đại gắn kết với mạng lưới các quan
hệ rất phức tạp. Sự phát triển của công nghệ điện tử tạo nên hệ thống Internet
liên kết toàn cầu cùng với sự ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng
đa chức năng, hình thành nên không gian xã hội rất rộng lớn, quá trình này làm
cho cơ chế các quan hệ này phong phú và phức tạp hơn. “Việc Internet tiến hóa
thành phương tiện truyền thông đại chúng cho phép những người sử dụng nó vượt
qua vai trò truyền thống của họ chỉ đơn thuần là người nhận và trở thành người
tham gia tích cực trong việc tiếp nhận, lưu trữ và phổ biến tin tức”.
Kinh nghiệm
cá nhân của con người rất hạn chế, còn nhu cầu định hướng trong thực tế xã hội
đầy biến động lại đòi hỏi hình thành một bức tranh chung của hiện tượng hoặc
quá trình này hay hiện tượng hoặc quá trình khác. Chính ở đây, những tri thức cảm
nhận trực diện đã có, thường làm đầy những “điểm trắng” trong bức tranh chung
được sử dụng nhờ có sự tưởng tượng. Chẳng hạn, các nhà xã hội học đã nhận thấy
rằng những người chưa bao giờ đến các nước lớn trên thế giới lại có khái niệm
tương đối chính xác về phong cảnh của những nước này. Trong quá trình tưởng tượng
đó ngầm chứa cả sức mạnh và cả cái yếu của dư luận xã hội, thực tế này gắn với
khả năng hình thành dư luận xã hội với sự tác động từ những mảnh riêng của thực
tế. Vì dư luận xã hội là hình thể tinh thần - thực tế nên nó phải có những yếu
tố của tinh thần làm tiền đề cho sự xuất hiện hành vi.
Chính những yếu
tố ý chí này gắn với mức độ nhất trí giữa các thành viên của cộng đồng xã hội,
với ý thức tập hợp những giá trị xã hội được họ lựa chọn. Ăngghen đã viết rằng
“Trong từng con người, muốn làm cho anh ta hành động, tất cả mọi động lực gây
ra hành động của anh ta đều phải đi qua cái đầu, đều phải biến thành động lực của
ý chí...”. Ý chí trong dư luận xã hội thể hiện ở việc động viên cá nhân như một
đại diện của một nhóm xã hội nhất định đưa ra hành động tương ứng với những “chỉ
thị”, “hướng dẫn” của ý kiến. Mệnh lệnh cần thiết để tập trung ý nghĩ và năng
lượng của quần chúng vào một hướng thống nhất. Nếu quá trình hình thành ý chí
và suy luận trùng lặp thì ý chí vốn rất bền vững sẽ làm cho những suy luận cũng
ổn định theo. Ý chí hình thành những suy luận này có thể được lan truyền và trở
thành hiện thực.
Cấu phần ý
chí thường ít được các nhà nghiên cứu dư luận xã hội quan tâm đầy đủ. Tuy vậy,
cấu phần này lại có ý nghĩa to lớn đối với cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Nghiên cứu
dư luận xã hội thực tế là sự thể hiện hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng.
Sự thể hiện những đánh giá và hành vi được tuyên truyền không thể có kết quả nếu
không có trạng thái ý chí tương ứng của quần chúng.
Lập luận trên
cho thấy những điều kiện và những yếu tố nhất định buộc dư luận xã hội đứng ở mức
độ phản ánh hiện thực (ý chí, lời nói) hoặc làm nó chuyển sang mức độ khác - mức
độ tác động lên thực tế và cải tạo nó (đi vào hệ thống các quan hệ xã hội, các
thể chế). Như vậy, trong dư luận xã hội có thể tách ra những tập hợp các yếu tố,
dù ở mức độ này hay mức độ khác, tác động đến tính tích cực của con người, hướng
đến việc thể hiện lợi ích xã hội một cách khách quan trong sự đánh giá của dư
luận xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Mai Quỳnh Nam (1995), “Dư luận
xã hội: mấy vấn đề về lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học, số
1.
2. Gorskov.M.K (1998), Dư luận
xã hội: lịch sử và hiện đại, Nxb. Tri thức, Moscow (tiếng Nga).
3. Hans L Zetterberg (2003),
“Social Science Theories and the Study of Public Opinion”, Paper prepared for WAPOR
(World Association of Public Opinion Researchers) annual meeting in Prague, Czech
Republic, September 17-19.
4. Korobeinhikov V.S. (1988), Bản
chất và chức năng của dư luận xã hội, Nxb. Khoa học, Moscow (tiếng Nga).
5. Eds. Wolfgang Donsbach & Michael W. Traugott, The
SAGE Handbook of PublicOpinion Research (2008), www.sagepublications.com
[1]
Gorskov. M.K (1988), Dư luận xã hội: Lịch
sử và hiện đại, Mockva, Nxb. Tri thức, tr72.
[2]
Sđd, tr76.
[3]
Về vấn đề này có thể xem thêm: Mai Quỳnh Nam (1995), “Dư luận xã hội - mấy vấn
đề lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học, số 1.
[4]
Korobeinhikov.V.S (1988), Bản chất và chức
năng của dư luận xã hội, Mockva, Nxb. Khoa học, tr122.
No comments:
Post a Comment