mấy ý kiến về học sử của Phạm Hoàng Mỹ(*)
mấy ý kiến về học sử của Phạm Hoàng Mỹ(*)
Tụng 1000 pho sử,
“Soạn 1000 cuốn sử,
“Không bằng làm một ngày lịch sử”
Là một bộ lạc
ở bờ sông Dương Tử, quanh Động Đinh Hồ, tổ tiên ta phải lần xuống phương nam vì
một lẽ: Muốn sống còn.
Chinh phục đất
đai, rồi chinh phục lòng người bổn xứ, để đồng hóa, gây mầm quốc gia mà sức đè
bẹp nặng nề, bền bỉ của hơn ngàn năm đô hộ của người láng giềng khổng lồ đông
hơn, mạnh hơn, quỷ quyệt hơn, văn minh hơn, không chả cho tàn rụi. Rồi nào ngăn
ngọn gió cuồng từ phương Bắc ào xuống, nào hất những luồng sóng dữ tự phương
Nam tràn lên, để củng cố tinh thần tự chủ, để cũng vì lẽ muốn sống còn, mở mang
bờ cõi về phương Nam, lại lần lần đồng hóa người Chàm, rồi đến một phần người
Miên, quả dân tộc Việt ta có một sức sống phi thường.
Và non trăn
năm xiềng xích Pháp mới đây, đối với hơn ngàn năm gông cùm Tàu từ thử xa xưa,
có là bao!
Vì sức sống của
dân tộc Việt vẫn khôn, vẫn mạnh, vẫn bền, vẫn cao từ bốn ngày năm.
*
Đã tự bốn
ngàn năm, sức sống khôn ngoan ấy, đại diện là chim Lạc: đó là con chim khổng lồ
thời tiền sử; mùa đông, biết trốn lạnh gắt gao, xuôi phương Nam tìm sáng ấm.
“Chờ xuân về mà cùng về với xuân”.
Sức sống cao
xa ấy, tượng trưng là chim Hồng: đó là loài ngỗng trời to lớn, xinh đẹp, mà sức
bay cao và bay xa truyền tụng trong câu thơ: “Cánh Hồng một cất mây nghiêng”.
Nòi Việt thờ
kính sức sống khôn ngoan, cao xa ấy, nên tự nhận mình là con Lạc cháu Hồng.
Sức sống hăng
mạnh ấy, biểu hiệu là con Rồng: đó là con thú dị thường thời hỗn mang, đứng đầu
tất cả loài vật, khi nằm im dưới nước sâu, lúc tung bay cùng vũ trụ, hoàn cảnh
nào cũng sống được.
Và đã tự bốn
ngàn năm, nàng Tiên là hình ảnh của sức sống thanh cao ấy, vì đó là một hình ảnh
vô cùng thanh thoát, dị hiền, gợi cho thông thương mở rộng.
Giống Việt thờ
kính sức sống hùng mạnh, thanh cao ấy, nên họ nhận mình là dòng dõi Rồng Tiên.
Thế thì,
chúng ta là con cháu Lạc Hồng, là giòng giống Rồng Tiên, ấy là chúng ta luôn
luôn đeo đuổi lý tưởng của ông cha để lại, bất cứ ở hoàn cảnh nào.
*
Nhưng nhìn lại
sử nước nhà, ta thấy lòng mình tràn ngập biết bao là cảm xúc.
Ta khổ với đồng
bào đã chịu muôn vàn tủi nhục, lầm than, những hồi bị người nước ngoài đô hộ
hay cướp phá.
Ta buồn thời
Nam Bắc phân tranh đã làm “người trong một nước” chẳng “thương nhau cùng”, làm
cho dân điêu linh, nước chia rẽ.
Ta từng giận
những Trần Ích Tắc, những Trần Thiện Bình, những Lê Chiêu Thống, vì chút lợi
riêng mà đi rước quân nước ngoài về dày xéo quê hương.
Ta tiếc những
bậc có tư tưởng mới, nuôi những hoài bão vĩ đại, như Hồ Quý Ly, như Nguyễn Huệ,
như Nguyễn Trường Tộ mà thời thế hoặc cái chết khiến nước ta phải chịu thiệt
thòi.
Ta hờn lớp sĩ
phu đời Nguyễn trói mình trong cái học nô lệ, không chút thiết thực chẳng thấy
chi xa, chỉ biết có một nước Tàu, đến nỗi nước mất nhà tan, dân khổ nhục…
Nhưng việc đã
qua là việc không gì thay đổi được.
Ta có khổ, có
buồn, có giận, có tiếc, có hờn… đến đâu thì lịch sử nước ta từ xưa đến ngày nay
không vì thế mà thay chiều đổi hướng.
Vì đó là “Sử
Chết”.
Nay, ta học sử
nước nhà để biết cái dở, cái lầm của người xưa mà tránh, cái hay cái đẹp của
người xưa mà theo, để thấy rõ công ơn của Tổ tiên đã dựng, đã giữ, đã mở nước,
giao lại cho chúng ta những gia tài quý báu, để tìm hiểu những nguyên nhân của
các biến cố lớn lao đã định sự thịnh suy của Tổ quốc, đặng ngẫm nghĩ, đặng chọn
lựa, đặng hành động, sao cho đúng với câu: “hậu sanh khả úy” (kẻ đến sau đáng sợ).
*
Học “Sử Chết”
ta không được quên rằng ta là người đang làm “Sử Sống”.
Ta học sử là
để được như thế.
Vậy mỗi chúng
ta phải luôn luôn cố gắng đem hết lòng, hết sức, hết tài mình hầu nước nhà vì
chúng ta mà thêm những trang sử vẻ vang, cho không thẹn với tổ tiên và con cháu
tự hào.
Ta học sử để
mà làm sử.
Làm sử sao
cho dân tộc được trường tồn, nòi giống được vinh quang, và góp phần vào công cuộc
đem lại yên vui cho Nhân loại.
______________________
(*) Tựa đề đặt lại.
Đường Lập (sưu tầm)
Nguồn: Phạm
Hoàng Mỹ, “Vài Ý Kiến về Học sử”, Tạp chí Bách Khoa, (01), 1957.
No comments:
Post a Comment