Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nhà văn, nhà báo Nguyễn Chánh Sắt (1869 - 1947).
Chữ
Quốc ngữ có được sự phát triển như ngày hôm nay, có thể dùng trong mọi hoàn
cảnh giao tiếp, được dùng trong mọi phong cách ngôn ngữ: văn chương, khoa học,
báo chí, hành chính… là nhờ trước hết ở tinh thần đón nhận chữ Quốc ngữ của
người Việt; kế đến phải kể các nhà văn Quốc ngữ Nam Bộ đã góp phần xây dựng
trong công chúng Nam Kỳ nói riêng, một nhu cầu đọc sách, báo. Thành tựu này có
sự đóng góp của Nguyễn Chánh Sắt với tư cách nhà văn và hơn nữa ông là một nhà
báo, nhà báo có tên tuổi trong làng báo chí Nam Kỳ với cương vị chủ bút tờ Nông
Cổ Mín Đàm, tờ báo nông nghiệp đầu tiên được công chúng độc giả mến mộ một
thời.
1. Là người có công
đóng góp vào sự phát triển thể loại văn xuôi, tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ XX,
nhà văn - nhà báo Nguyễn Chánh Sắt, để lại 2 quyển tiểu thuyết xã hội có ý
nghĩa; đó là: “Nghĩa hiệp kì duyên” (tức Chăng Cà Mun, 1920) và “Lòng người
nham hiểm”, 1926.(1)
Từ 2 sáng
tác này và trong nhiều sáng tác khác của Vĩnh An Hà (một trong hai bút hiệu của
Nguyễn Chánh Sắt, bút hiệu còn lại là Du Nhiên Tử), có nhiều vấn đề được các
nhà nghiên cứu quan tâm, như: hiện thực Nam Bộ thời ấy, tâm lí và tính cách
người Nam Bộ, đặc trưng tiểu thuyết Quốc ngữ, đặc trưng phương ngữ Nam Bộ qua
sáng tác nhà văn… Riêng trong tham luận, chúng tôi đề cập tới cái riêng, chung
của Nguyễn Chánh Sắt với tư cách là một tác giả quốc ngữ Nam Bộ khi thể hiện
những sáng tác của mình. Có thể gọi là phong cách cá nhân, phong cách tác giả
hay gọi bằng khái niệm khác thiên về văn chương là “văn phong”, được hiểu là
“phong cách viết văn của mỗi người”.(2)
2. Đề cập tới phong
cách tác giả, chúng tôi muốn nhấn mạnh 2 điều: 1. Sự thể hiện ngôn ngữ chung
thông qua sáng tác phẩm của nhà văn. 2. Dấu ấn cá nhân trong ngôn ngữ diễn đạt.
Cả 2 nhân tố chung, riêng này được vận dụng kết hợp sẽ tạo nên phong cách tác
giả. Còn sự hài hòa, khéo léo ở mỗi nhà văn sẽ ghi được dấu ấn đậm, nhạt trong
lòng công chúng độc giả.
2.1.
Sự thể hiện ngôn ngữ chung thông qua sáng tác phẩm của nhà văn
Là nhà văn
sinh trưởng ở Nam Bộ, Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947) có quê quán ở làng Long Phú,
huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc thị trấn Tân Châu, huyện Phú Châu,
tỉnh An Giang. Quá trình niên thiếu, ông được học chữ Hán, tiếng Pháp; lớn lên
nhờ làm báo, dịch truyện Tàu mà vốn hiểu biết, đặc biệt là Hán học của ông được
khơi thêm sâu rộng.(3) Tuy nhiên, tiếng
Việt Nam Bộ vẫn là ngôn ngữ nền tảng được ông thể hiện chủ yếu trong tác phẩm.
Mở đầu tác
phẩm “Nghĩa hiệp kì duyên”,
người đọc có thể nhận ra ngay giọng văn Nam Bộ của ông qua một số từ địa phương
quen thuộc được dùng trong văn miêu tả của ông: “Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát mẻ, trên nhành chim kêu chiu chít, dưới sông cá
lội vởn
vơ; Lâm
Trí Viễn tay cầm nhựt
báo, tay
xách ba
ton, rảo
bước thung
dung(4), thơ thẩn lối cầu đường núi Sam là chỗ hẹn hò
với tình nhân mà trao lời tâm sự.”.(5)
Ở tác phẩm
“Lòng người nham hiểm”,
một đoạn văn miêu tả khác cũng phản ánh rõ nét đặc trưng phương ngữ Nam Bộ
trong lối hành văn của tác giả: “Còn
bà Phủ khi thấy Hoàng Hữu Chí tới nhà thì mừng lắm, chào hỏi lăng xăng, lại hối
trẻ bưng trà thết đãi. Lúc ấy Hoàng Hữu Chí
miệng thì uống trà mà con mắt thì liếc xem tứ phía,
thấy nhà bà tuy là đờn
bà góa mặc dầu, mà ăn ở sạch sẽ, trong nhà sắp đặt
nghi tiết chỉnh tề, mỗi mỗi đều có quy củ chuẩn thằng, rất nên đúng đắn. Còn đang nứt nở khen
thầm, bỗng nghe bà Phủ và cười và nói rằng…”.(6)
Ngôn ngữ
đối thoại mà tác giả dùng cho nhân vật, những nhân vật Nam Bộ, mang đậm dấu ấn
phương ngữ Nam Bộ. Tất nhiên, một nhà văn sinh trưởng ở vùng miền khác có thể
vận dụng thành công ngôn ngữ nhân vật cũng không phải không có. Tuy vậy, không
là người Nam Bộ, người viết, không thể có được đối thoại sắc sảo, như đoạn đối
thoại giữa bà Phủ và hai cô gái con ông quan Huyện trong “Lòng người nham hiểm” cho
thấy việc chọn lọc từ ngữ phù hợp nhân vật, được tác giả quan tâm trau chuốt:
“Nè hai cháu, qua thấy hai cháu tuổi còn thơ ấu mà lại gặp cái khổ
cảnh như vầy, thật qua thương lắm. Tưởng là ai kìa, chớ như quan huyện là ông thân của
hai cháu đây, qua tuy chưa biết mặt, chớ qua cũng có nghe cái đại danh của người vẫn cũng đã lâu.
Lúc ông Phủ của qua ở nhà còn sanh tiền, mỗi khi ổng bình luận mấy
ông danh sĩ Nam Kỳ,
thì ổng vẫn thường
nhắc nhở cái quý danh của ông thân cháu luôn, cho nên qua cũng là kính phục.
Nay mà hai ông bà mắc đi tị nạn phương xa, còn hai cháu đây là phận gái thơ
ngây, dễ gì mà đi tìm cho được. Nay
qua có một lời muốn nói cùng hai cháu, chẳng hay hai cháu có sẵn lòng mà nghe
qua nói hay chăng?”.(7)
Cách
nói chuyện mở lời của bà Phủ cho thấy đây là một bà Phủ nhân hậu, muốn giúp
người, dù người giúp đáng tuổi con cháu, nhưng bà đã hết sức thận trọng trong
cách mở đầu câu chuyện, tránh gây một “cú sốc tâm lí” ở hai tâm hồn trẻ dễ bị
tổn thương trong tình huống “bơ vơ”, đi tìm cha mẹ.
Điều tế
nhị ở đây là bà đã khéo dẫn dắt câu chuyện từ xa, bằng việc thể hiện lòng kính
trọng đối với cha của hai cô gái. Kế đó, bà mới nêu lí do về trường hợp của hai
cô gái là “phận gái thơ ngây”…
“Rào trước đón sau” đã đủ, bà mới đề nghị người nghe (hai cháu) chấp nhận cho
mình nêu ý kiến. Về phương diện ngôn ngữ diễn đạt, bà đã dùng những từ ngữ,
cách nói gần gũi và rất thân tình nên dễ tạo được cảm tình gắn bó, thân thiện ở
người nghe, như cách gọi “Nè
hai cháu”, cách xưng gọi “qua”,
“ông thân”, “ổng” và những từ để tô đậm
sự kính trọng thật lòng của bà với cha của hai cháu để dành được tình cảm ban
đầu của hai cô gái: “đại danh”,
“danh sĩ Nam Kỳ”,
“quý danh”, “kính phục”. Tất cả như vậy
đủ thể hiện tấm lòng bà Phủ; nhưng bà vẫn thận trọng, chưa đi thẳng vào vấn đề
mà chỉ xin được nêu ý kiến - “có
một lời muốn nói cùng hai cháu”, nếu hai cô “sẵn lòng mà nghe”.
Tất nhiên,
từ cách giao tiếp “đắc nhân tâm” của bà Phủ, bà đã nhận được lời đối đáp của cô
chị Thu Cúc, một trong hai cô gái của ông quan huyện. Lời thưa của cô Cúc cũng
rất thật lòng mà cũng đầy nét dịu dàng, lễ phép: “Bẩm bà, vã bà là người tuổi tác, cũng như cô bác mẹ
cha, còn
chị em tôi đây là phận
cháu con,
như bà muốn nói điều chi, nếu phải thì chị em tôi vâng, bằng có điều chi mà
chẳng vừa lòng thì tôi xin bà dạy lại, chớ có hệ chi mà bà phòng ngại.”.(8) Ngôn ngữ của cô
gái con nhà có dạy, như: “bẩm
bà”, “bà là người
tuổi tác, cũng như cô bác mẹ cha”, “phận cháu con”, “xin bà dạy lại”, “có hệ chi mà bà phòng ngại”.
Đoạn đối
thoại khác giữa bà Phủ với cô con nuôi Thu Cúc cũng hết sức phải phép giữa đôi
bên. Bà Phủ nói: “Má thấy con nay đã trộng rồi, lẽ phải định bề đôi lứa cho kịp tiết kịp thời. Nay má thấy thầy giáo này học hành đã
khá mà tánh
hạnh cũng dễ thương,
nên má muốn định gả con cho thầy. Nhưng định thì định vậy, song còn phải chờ
nghe tin tức anh chị ở
đâu mà cho hay đã rồi sẽ tính, chẳng hay ý con thể nào, con cứ nói ngay cho má liệu.”. Còn đây
là lời thoại của cô Cúc: “…
Gia dĩ cái ơn
tri ngộ của má đây thật rất cao dày, nói cho cùng mà nghe, dẫu má có dạy con chết đi nữa thì con cũng
chẳng từ,
huống chi là việc hôn nhân. Ngặt vì lúc con còn bé, cha con đã hứa hôn, định gả con cho Phan
Quốc Chấn. Lúc cha con gần để bước lên đường, thì người vẫn cũng đinh ninh dặn dò con việc
ấy…”.(9)
Cách nói
của bà Phủ là cách nói tuy có văn vẻ, nhưng cũng bình dị, chân tình, chừng mực
của một bà mẹ Nam Bộ. Từ lối xưng gọi “má
- con”, đến cách dùng ngôn từ diễn đạt “trộng” , “định
bề đôi lứa cho kịp tiết kịp thời”, “tánh hạnh cũng dễ thương”, “định thì định vậy song còn phải chờ…”,
“ý con thế nào”, “má liệu”. Cách nói của cô
Cúc cũng khéo léo, được thể hiện rõ trong một từ “ngặt” là lí do, sau những lời biện dẫn.
Nhìn
chung, ngôn ngữ tác giả đậm chất phương ngữ; nhưng không đến mức thô kệch, khẩu
ngữ, khiến người ở những vùng miền khác khó trong việc tiếp thu. Ở đây, có lẽ
nhờ kinh nghiệm làm báo nên ngôn ngữ ông dùng trong tác phẩm không quá “thổ
ngữ” và “trần trụi” ở thời điểm lúc đó, so với một số nhà văn Nam Bộ cùng thời
với ông như Hồ Biểu Chánh, dù rằng lượng sáng tác của nhà văn đất Gò Công này
đồ sộ gấp mấy lần số lượng tác phẩm của ông.
Qua đoạn
trích trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh: “Trong
xóm Ụ Tàu, nằm xéo xéo vàm rạch Ông Lớn là xóm nghèo hơn hết ở vùng này. Còn
một vài ông thợ
thuyền đi
làm về trễ, nên xung
xăng đi về riết kẻo vợ
con chờ ăn cơm. Vài anh xà phu mặc quần vắn, áo văt vai, bươn bả ra sang xe để chạy cử tối… Giữa
lúc lờ
mờ gần hết sáng, nhưng chưa thiệt tối đó, một chị đàn bà ngồi trước căn nhà
lá xịch
xạc, mắt
ngó xuống kinh xem tàu
dắt ghe đi
ngang. Một đứa con gái nhỏ xẩn bẩn chơi một bên chị…”,(10) ta thấy, đoạn văn
trong “Vợ già, chồng trẻ” có những từ địa phương và cách diễn đạt nặng khẩu ngữ
có thể gây trở ngại cho việc tiếp nhận tác phẩm ở những người Việt các vùng
miền khác. Nói cách khác, yếu tố phương ngữ trong sáng tác của Nguyễn Chánh Sắt
về cơ bản là trong sáng, ít nhiều có sự gọt giũa, tu từ. Điều đó đã góp phần cổ
vũ cho sự phát triển nhanh, mạnh chữ Quốc ngữ buổi đầu thay thế cho chữ Hán, mà
chữ Pháp đang muốn chiếm giữ vị trí.
2.
2. Dấu ấn cá nhân trong ngôn ngữ diễn đạt của nhà văn
Có thể dễ
dàng rút ra đặc trưng phong cách ngôn ngữ cá nhân tác giả ở thời kì này, như
nhiều nhà văn Quốc ngữ Nam Bộ khác, là sự chi phối của kiểu diễn đạt biền ngẫu
trong hành văn miêu tả của họ. Theo tôi, nhìn ở thời điểm lúc bấy giờ bằng con
mắt của người ngày nay thì có thể suy kết đây là một hạn chế trong diễn đạt của
giới viết văn. Nhưng thẩm mỹ thì nó có thời, mà điều đó cũng không loại trừ nhà
văn vừa bị chi phối của thời điểm và phải đáp ứng yêu cầu của công chúng độc
giả. Vì không đời nào, những người cầm bút, nhà văn, nhà báo lại có vốn ngôn
từ, hành văn lạc hậu hơn công chúng được. Đây là một vài đoạn miêu tả đăng đối
của tác giả mà theo tôi quả là thú vị, vì nó không nhiều trong một tác phẩm, mà
cũng không nặng “biền ngẫu” như một số nhà phê bình nhận định(11): “Vừa cuối tiết thu, trời chiều mát
mẻ, trên
nhành chim kêu chiu chít, dưới sông cá lội vởn vơ; Lâm Trí Viễn tay cầm nhựt báo, tay xách ba ton, rảo bước thung dung, thơ thẩn lối cầu
đường núi Sam là chỗ hẹn hò với tình nhân mà trao lời tâm sự.”.(12)
Còn đây là
đoạn văn mang tính biền ngẫu, nặng tính văn chương, khi tác giả muốn thi vị hóa
thiên nhiên, hiện thực: “Đang
buổi trời mai, vầng đông ánh rạng: lố xố đòi ngàn sương điểm cỏ, lơ thơ mấy
cụm gió đùa cây.
Kìa một con đường ngay thẳng rẳng, hai bên hoa thảo thanh u, chính giữa đường
những khách đi hành hương, đua nhau kẻ trước người sau, nào là ngựa, nào là xe rất nên náo nhiệt; còn những khách
đi chơi, thì cứ huởn hưởn dò lần, tán bộ nhàn hành, rảo bước thung dung, để
ngắm xem phong cảnh.”.(13)
Văn biền
ngẫu trong sáng tác Nguyễn Chánh Sắt theo tôi là vừa phải, không quá nhiều và
đậm đặc trong tác phẩm đến mức trở thành “cổ điển”, “lạc thời”, nếu ta có dịp
quan sát những đoạn văn biền ngẫu của nhà văn cùng thời với ông, cũng là Hồ
Biểu Chánh và đây là một đoạn trích trong sáng tác “Ai làm được”: “Năm 1894, một buổi chiều kia gió xuân mát mẻ, nước lớn đầy sông, cỏ cây tươi tốt. Bạch Khiếu Nhàn mình mặc áo quần toàn bằng lụa trắng, vai vắt khăn nhiễu đỏ, thủng thẳng đi dọc theo mé sông Cà Mau mà hóng mát. Khi ông dừng chân đứng coi sắp nhỏ lội
đua, khi ông mỉm cười bầy chó rượt nhau cắn
lộn”.(14)
Là dịch
giả sách nhiều sách Trung Hoa, nên trong tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt, ông
dùng rất nhiều điển cố Hán Việt. Điều này vừa có điểm mạnh vừa có mặt nhược.
Điểm mạnh là câu văn của ông được nâng đỡ về mặt lí luận, khiến điều nhận xét,
định luận có sức thuyết phục. Chẳng hạn, đoạn trích câu nói Cao Quốc Thủ, nha
sĩ nói với khách hàng về lời hứa sẽ hậu tạ rất hậu cho ông, nếu công việc ông
làm cho khách hàng được thành công: “Cô
ơi, nhứt
ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy, lời nói ra, xe hơi theo không kịp. Tôi từ ra làm thuốc
đến nay chỉ lấy
chữ tín thành mà giao thiệp với người, chẳng hề dám đơn sai một mảy; vì thuốc tôi
hay mà nếu thất tính cùng ai thì chẳng còn linh nghiệm chi hết. Thôi, cô với
thầy hãy an tâm mà về miễn là đừng quên lời hứa thì thôi.”.(15) Nhưng việc dùng
quá nhiều, lại gắn cho những nhân vật, nhiều khi không phù hợp với phong cách
cá nhân, khiến cho hình tượng nhân vật cứng nhắc, thiếu tính sinh động; còn
ngôn ngữ nhân vật thì quả có ít nhiều rối rắm với người nghe; dù rằng, đã từng
có bộ phận người Nam Bộ ngày trước thích diễn đạt bằng những điển tích, câu
chữ. Chẳng hạn, câu nói bà Phủ nói với đứa con nuôi Thu Cúc: “Thôi, con chớ ngại chi, vì má có nghe
rằng: Quân
tử năng thành nhân chi mỹ.
Hễ làm người thì phải giúp nhau cho nên việc mới là…”(16). Dù gì, đây cũng là
một đặc trưng làm nên phong cách ngôn ngữ của Bá Nghiêm, Nguyễn Chánh Sắt.
Do
Nguyễn Chánh Sắt có tâm hồn thi văn nên trong tác phẩm của mình, tác giả hay
chèn những đoạn thơ thay cho lối hành văn miêu tả. Sự kết hợp thơ trong văn
cũng làm những những sáng tác của mình được mềm mại, thay đổi “khẩu vị” cho
người thưởng thức khi phải đối mặt với nhiều đoạn văn nhiều khi khô khan, “khó
nuốt”. Đây cũng là điểm làm nên phong cách tác giả; nhưng phải chẳng, đó cũng
là “cái gu” thẩm mĩ ở thời kì mà văn chương đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ đi từ thơ sang văn trong
giới sáng tác cũng như trong công chúng độc giả?
Trong 2
quyển tiểu thuyết xã hội được dẫn trong tham luận, quyển “Lòng người nham hiểm” thỉnh
thoảng được tác giả chen vào những đoạn văn là những bài thơ, hoặc những câu
thơ vừa như đúc kết ý của đoạn, vừa như một khái quát hóa, kết luận cho một vấn
đề mà tác giả muốn diễn đạt gọn để người đọc dễ nắm bắt: “Mà thật cũng ngán cho cái thói đời. Lúc
ông mới về tạo lập gia cư, trong nhà thì tôi trai tớ gái đã rần rần, ngoài ngỏ
những khách quý bạn sang thêm rộ rộ. Đến nay nhà ông rủi mà gặp hồi lưu li điên
bái, sa cơ thất thế đi rồi, ối thôi! Một khóm liều tranh không kẻ đoái, hai
gian nhà lá chẳng ai màn.
Thật rõ ràng là:
Nhơn
tình tợ chỉ trương trương bạc. Thế sự như kì cuộc cuộc tân.
Một
đêm kia, hai chị em chong đèn đem mặt gối căng ra, rồi ngồi lại vừa thêu vừa
trò chuyện với nhau, nhơn nhắc tới những chuyên đâu đâu, xiết bao trăm thảm
ngàn sầu, dòm lại trong nhà vắng trước quạnh sau, liền nhớ tới mẹ cha, vùng sa
nước mắt.
Ôi! Xưa sao nhiều kẻ ra
vào? Chừ sao vắng trước quạnh sau một mình.”(17)
Cách viết
tiểu thuyết chương hồi đã trở nên mẫu mực trong nhiều tác phẩm Trung Quốc.
Trong thời kì đầu của văn xuôi Quốc ngữ, các nhà văn Nam Bộ vừa học tập tiểu
thuyết phương Tây, vừa đi theo khuôn mẫu của tiểu thuyết chương hồi, nên không
lạ gì, hầu hết các tác phẩm Nam Bộ ở thời kì đi theo lối viết: trình bày chương
đầu, mở ý ra chương sau; trình bày chương sau mở ý cho chương kế tiếp và kết
thúc tác phẩm bảo giờ cũng là một kết thúc “có hậu”: sự thật thắng, người hiền
tài được trả lại những gì bị đánh mất.
Có thể
kiểu viết “theo lối mòn” ấy làm cho người ta nhàm chán, vì nó mất đi nhiều yếu
tố bí mật, bất ngờ. Trên đại thể là như vậy; nhưng những nhà văn sâu sắc trong
việc xây dựng cốt truyện, có thể đưa ra nhiều tình huống “được – mất”, khiến
tác phẩm cũng không đơn điệu mà thu hút người độc đến cuối truyện, như trường
hợp trong “Nghĩa hiệp kì duyên”: Chăng Cà Mum, Trịnh Phương Lan cũng nhiều phen
gặp nạn mới đến được bến bờ mong ước; còn Đào Phi Đáng (Phương Lan giả) cũng
nhiều phen “mất – được” mới chấp nhận thua cuộc. Lối viết này phù hợp với mong
ước của công chúng bình dân và tất nhiên cũng là đông đảo công chúng mê văn
chương thời kì ấy. Ngay cả ở thời điểm hiện nay, lối viết chương hồi, không hẳn
là đã hết công chúng độc giả. Bằng chứng là những sáng tác của Nguyên Hùng
trong giai đoạn 1930-1945 vẫn lôi cuốn được công chúng độc giả.
3. Chữ Quốc ngữ có được sự
phát triển như ngày hôm nay, có thể dùng trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, được
dùng trong mọi phong cách ngôn ngữ: văn chương, khoa học, báo chí, hành chính…
là nhờ trước hết ở tinh thần đón nhận chữ Quốc ngữ của người Việt; kế đến phải
kể các nhà văn Quốc ngữ Nam Bộ đã góp phần xây dựng trong công chúng Nam Kỳ nói
riêng, một nhu cầu đọc sách, báo. Thành tựu này có sự đóng góp của Nguyễn Chánh
Sắt với tư cách nhà văn và hơn nữa ông là một nhà báo, nhà báo có tên tuổi
trong làng báo chí Nam Kỳ với cương vị chủ bút tờ Nông Cổ Mín Đàm, tờ báo nông
nghiệp đầu tiên được công chúng độc giả mến mộ một thời.
Chú
thích:
1. Hai tác
phẩm được chọn khảo sát trích trong Văn
xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX, tập 2, 2000, NXB. Văn nghệ, thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 19 - 129.
2. Từ điển tiếng Việt, 1992,
Viện khoa học xã hội – Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội,
VN, tr. 1079.
3. Từ điển Văn học, bộ mới,
2004, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên, NXB.
Thế Giới, tr. 1112.
4.Những từ
Nam Bộ được nhấn mạnh in đậm trong các đoạn trích dẫn (HCT). Có thể xem thêm
các đơn vị này trong Từ
điển Từ ngữ Nam Bộ, 2009, Huỳnh Công Tín, NXB. CTQG, HN.
5. Nguyễn
Chánh Sắt, Nghĩa hiệp kì
duyên, sđd, tr. 19.
6. Nguyễn
Chánh Sắt, Lòng người
nham hiểm, sđd, tr. 96.
7. Nguyễn
Chánh Sắt, Lòng người
nham hiểm, sđd, tr. 93.
8. Nguyễn
Chánh Sắt, Lòng người
nham hiểm, sđd, tr. 93.
9. Nguyễn
Chánh Sắt, Lòng người
nham hiểm, sđd, tr. 97-98.
10. Huỳnh
Công Tín, Văn chương miền
sông nước Nam Bộ, 2012, NXB CTQG, tr. 79.
11. Từ điển Văn học, sđd, tr.
1112.
12. Nghĩa hiệp kì duyên, sđd,
tr. 19.
13. Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX,
sđd, tr. 73.
14. Huỳnh
Công Tín, Văn chương miền
sông nước Nam Bộ, sđd, tr. 56.
15. Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX,
sđd, tr. 24.
16. Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX,
sđd, tr. 98.
17. Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX,
sđd, tr. 86.
No comments:
Post a Comment