Wednesday, October 31, 2018

TIẾN SĨ LÊ KIÊN THÀNH: CHA TÔI KHÔNG BAO GIỜ BIẾT VÌ SAO MÌNH LÀ NGƯỜI ĐƯỢC LỰA CHỌN


Chưa bao giờ, trong những cuộc trò chuyện, tôi hỏi Tiến sĩ (TS) Lê Kiên Thành những câu hỏi thẳng thắn, sòng phẳng, thậm chí đôi khi có thể khá khó chịu về cha ông - cố Tổng Bí thư (TBT) Lê Duẩn như trong buổi trò chuyện này. Và ông đã đáp lại bằng sự thẳng thắn thậm chí còn vượt cả sự chờ đợi của tôi.
LTS: Với 79 năm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động Cách mạng, 26 năm liên tục trên cương vị Bí thư thứ Nhất và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Lê Duẩn là nhà lãnh đạo chính trị kiên định, nhà chiến lược xuất sắc, nhà tổ chức tài năng, nhà tư tưởng chính trị lớn của Cách mạng Việt Nam.
Hôm nay là kỷ niệm 30 năm ngày mất của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn (ngày 10/7/1986 - 10/7/2016), Báo điện tử CAND xin đăng lại bài trò chuyện với TS Lê Kiên Thành, con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn. Bài đăng trên Báo ANTG cuối tháng 4-2015.
****
40 năm sau ngày đất nước thống nhất, có lẽ đây là thời điểm hợp lý hơn bao giờ hết để hiểu thêm một phần về cố TBT Lê Duẩn và những đóng góp của ông trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước...
- Phóng viên: Thời điểm năm 1957, khi Bác Hồ mời ông Lê Duẩn từ miền Nam ra miền Bắc và được Trung ương bố trí làm Tổng Bí thư, đã có rất nhiều người bất ngờ. Khi đó, ai cũng đinh ninh rằng một số đồng chí có uy tín cao ở miền Bắc và là những học trò xuất sắc của Bác sẽ được chọn vào vị trí đó. Nhưng cuối cùng, cha ông lại là người được chọn. Có bao giờ, lúc còn sống, cha ông kể cho ông nghe về lý do của quyết định ấy?
Tiến sĩ Lê Kiên Thành:  Đối với cha tôi, đó mãi mãi là một câu hỏi cho đến tận cuối đời. Cha tôi từng tâm sự với  tôi rằng, thật ra cho đến trước thời điểm ông ra miền Bắc năm 1957, ông là một trong những người ít gần Bác Hồ nhất. Cha tôi hoạt động cách mạng suốt từ Bắc vào Nam. Nhưng ông chưa từng gặp Bác trước đó cho đến lần gặp đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, cha tôi trở về từ nhà tù Côn Đảo. Ông ra Bắc gặp Bác Hồ ở Hà Nội. Trong cuộc gặp đó, ông là người “cãi” lại Bác trong nhiều chuyện.
Cha tôi kể lúc đó Bác Hồ đã nhìn ông với ánh mắt đầy ngạc nhiên, bởi xung quanh hầu như mọi người đều nhất mực nghe Bác. Chính cha tôi cũng không biết, buổi gặp đầu tiên đó, ấn tượng của Bác dành cho ông là thế nào. Nhưng với tính cách của cha tôi, ông không bao giờ ngại những điều đó.
Năm 1948, Bác Hồ và Trung ương cử ông Lê Đức Thọ vào miền Nam chấn chỉnh Xứ ủy Nam Kỳ vì đã có những hoạt động khác với đường lối chung của Trung ương Đảng chỉ thị. Và có thể sẽ bố trí ông Lê Đức Thọ làm Bí thư Xứ ủy.
Suốt 5 ngày đầu tiên khi ông Lê Đức Thọ thay Trung ương phê bình Xứ ủy, nhiều người trong Xứ ủy xôn xao bàn tán, nhưng cha tôi ngồi im ghi chép tất cả ý kiến của Trung ương. Hai ngày cuối cùng, ông mới nói. Ông giải thích tất cả những việc Xứ ủy làm, tại sao làm, kết quả như thế nào. Sau hai ngày đó, ông Lê Đức Thọ đứng lên đánh giá ghi nhận việc làm của Xứ ủy Nam Kỳ và nói một câu cuối cùng trước khi kết thúc hội nghị: “Tôi sẽ xin phép Bác Hồ ở lại làm phó cho anh Ba”.
Tôi không biết bằng cách nào, cha tôi, sau hai ngày nói chuyện, đã thuyết phục được ông Sáu Búa (tên gọi thân mật của ông Lê Đức Thọ) - một người nổi tiếng cứng rắn có thể thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của mình.
Năm 1955, khi bộ đội và cán bộ cách mạng tập kết ra Bắc, cha tôi xin Bác ở lại miền Nam. Ngày chia tay, cha tôi nói với ông Lê Đức Thọ một câu: “Anh ra báo cáo với Bác, không phải hai năm, mà có thể phải hai mươi năm nữa, tôi mới được ra gặp Bác”. Ngay thời điểm mà nhiều người ở cả miền Nam và miền Bắc vui mừng về Hiệp định Genève, chúng ta đã biết, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, không bao giờ chỉ là hai năm. Cha tôi nói ông đã khóc rất nhiều khi nhìn những gia đình miền Nam trước khi ra Bắc tập kết đã giơ hai ngón tay - hẹn 2 năm sau gặp lại...
Nhưng sau khi ông Lê Đức Thọ ra, miền Bắc vướng phải sai lầm trong cải cách ruộng đất. TBT Trường Chinh xin từ chức. Lúc đó Trung ương đang tìm người thay thế ông Trường Chinh. Như lời ông Lê Đức Thọ sau này kể lại thì ông chính là người đề cử cha tôi với Bác Hồ. Ông Lê Đức Thọ nói: “Thời điểm này, với những nhiệm vụ cách mạng được đặt ra, không ai xứng đáng hơn là anh Ba”. Có lẽ, việc cha tôi là người gắn bó hơn cả, hiểu cách mạng miền Nam hơn cả, là một trong những nguyên nhân ông được Bác gọi ra Bắc.
Thế nhưng lúc đó cha tôi lại nghĩ rất khác. Ông nghĩ rằng, nếu nói ông là người hiểu miền Nam, thì tại sao không để ông ở lại? Mà ông thì vô cùng muốn ở lại sát cánh cùng đồng bào miền Nam. Cha tôi từng kể, thời điểm đó, ra miền Bắc là điều ông không muốn, vì cách mạng miền Nam còn bao việc bề bộn, số phận của cách mạng miền Nam có nguy cơ đi đến hồi chấm hết, khi mà Mỹ - Ngụy đi đến từng thôn ấp tìm diệt những cán bộ cách mạng còn ở lại, trong khi chúng ta, vì tôn trọng cam kết Hiệp định, đã không thể vũ trang chống lại. Nhưng dù ông tha thiết xin ở lại, Bác Hồ lại vô cùng cương quyết. Bác đã đánh 3 bức điện vào miền Nam yêu cầu cha tôi ra.
Sau này, cha tôi nhận ra rằng, việc ông được điều ra là đúng. Bởi vì ra là đấu tranh để đi đến thống nhất về đường lối cách mạng miền Nam.
- Liệu khi ra miền Bắc, cha ông có phải đối mặt với khó khăn?
Thời điểm cha tôi ra, ảnh hưởng của cải cách ruộng đất đến uy tín của Đảng vẫn còn nặng nề. Bác Hồ đề nghị cha tôi là Bí thư thứ nhất, kiêm chức vụ khác. Nhưng cha tôi nói: “Thưa Bác, tôi đề nghị Bác bố trí các đồng chí khác cùng gánh vác”. Sau khi tính toán kỹ, Bác cùng Trung ương sắp xếp ông Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội, ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng.
Trong sâu thẳm, cha tôi nghĩ rằng, sẽ là không công bằng với ông Trường Chinh khi một mình ông phải chịu trách nhiệm toàn bộ cho những sai lầm cải cách ruộng đất, nhất là với những công lao, những cống hiến của ông cho cách mạng - người vào sống ra chết với cách mạng Việt Nam suốt từ những năm 1930 đến giờ.
Đề nghị đó của cha tôi cùng những quyết định sáng suốt của Bác đã khiến những nguy cơ xung đột trong lãnh đạo Đảng, như một số người lo ngại không xảy ra. Sự thay đổi lớn về vị trí lãnh đạo này đã không tạo ra những mâu thuẫn, mà ngược lại đã khiến trong những người đứng đầu của Đảng có sự đoàn kết cao, trừ những khác biệt trong quan điểm về đường lối cách mạng sau này về chủ trương thống nhất đất nước bằng con đường đấu tranh vũ trang hay không?
- Nói về ảnh hưởng của TBT Lê Duẩn với đường lối cách mạng miền Nam, Đại tướng Lê Đức Anh đã nói, Nghị quyết 15 được xây dựng trên nền tảng “Đề cương Cách mạng miền Nam” do cha ông soạn thảo. Có phải từ thời điểm đó, những quan điểm khác nhau về đường lối giải phóng miền Nam của TBT Lê Duẩn và một vài người khác đã bắt đầu thể hiện?
Tôi được biết Nghị quyết 15 được khởi thảo từ khi cha tôi còn chưa ra Bắc. Ông Hoàng Tùng cùng ông Võ Nguyên Giáp là người khởi thảo bản nghị quyết đó. Nhưng nội dung Nghị quyết 15 cuối cùng chỉ được hoàn thành sau hai năm, với không biết bao nhiêu cuộc họp và tranh luận để đi đến thống nhất.
Nội dung quan trọng của bản Nghị quyết được đưa ra là vấn đề đường lối giải phóng miền Nam. Trong quá trình tranh luận, một bên ủng hộ thuyết hòa bình, cho rằng miền Bắc tự mạnh lên thì sẽ là tấm gương đầy thuyết phục với miền Nam, và miền Nam tất yếu sẽ đi theo chúng ta và cuối cùng đi đến thống nhất. Cha tôi thì ủng hộ quan điểm về con đường vũ trang cách mạng và cho đó là con đường tất yếu, không thể tránh khỏi.
- Và dường như đó là tư tưởng xuyên suốt của TBT Lê Duẩn trong giai đoạn chống Mỹ. Điều gì đã khiến ông cho rằng, đó là con đường tất yếu phải đi để giải phóng miền Nam?
Cha tôi và nhiều người cho rằng, với một nước Mỹ mạnh như thế, một nước Mỹ chưa từng thua trong bất cứ cuộc chiến nào trước đó, nhất là một nước Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, thì không có một lý do gì Mỹ từ bỏ Việt Nam và để cho Việt Nam thống nhất trong hòa bình. Mà Mỹ đánh Việt Nam, là để đánh vào thành trì của Chủ nghĩa xã hội, chứ không riêng gì Việt Nam.
Những khác biệt về quan điểm đấu tranh đã khiến Nghị quyết 15 chỉ được thông qua sau 2 năm trời. Tôi nghe nói, chưa từng có một hội nghị Trung ương nào dài đến như vậy.  Có những Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ ra miền Bắc, nghỉ lại tại chính nhà tôi, chỉ để hàng tháng chờ đợi kết quả của hội nghị đó.
Có lần cha tôi kể, khi đó những người bạn lớn của Việt Nam đã cảnh báo chúng ta: Khi mà các đồng chí chưa đủ lực lượng, các đồng chí tiến hành cuộc chiến tranh miền Nam, không những không giải phóng miền Nam được mà còn có khả năng mất luôn cả miền Bắc. Các đồng chí có biết Thế chiến 3 có thể bắt đầu từ chính cuộc chiến này? Nghĩa là áp lực từ các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam lúc đó là vô cùng khủng khiếp. Mà chúng ta đương nhiên rất khó chiến đấu với một nước mạnh như nước Mỹ mà không có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Khi mà trong nội bộ Đảng đã thống nhất được - sau 2 năm về đường lối giải phóng miền Nam, thì Bác Hồ giao cho cha tôi sang thuyết phục những người bạn lớn, nhưng họ không đồng ý việc ta sử dụng con đường vũ trang cách mạng, vì họ đều nghĩ rằng nước Mỹ là một thế lực khủng khiếp mà Việt Nam không thể cản được.
Có một lần cha tôi đi sang và một đồng chí lãnh đạo của nước bạn đã nói với cha tôi trong hội đàm: “Các đồng chí sẽ không bao giờ thắng được Mỹ. Mỹ mạnh đến mức chúng tôi còn phải ngại thì Việt Nam không có cách gì thắng Mỹ”. Lần đầu tiên mọi người chứng kiến cha tôi đập bàn, nói rất gay gắt với đồng chí lãnh đạo nước bạn. Cha tôi kể lại câu chuyện vui rằng, sau khi miền Nam giải phóng, cha tôi gặp lại ông ta, mặt ông ta buồn rười rượi, bởi ông ấy nhớ tất cả lời ông đã nói với cha tôi trước kia.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thế giới đã nhìn thấy hình ảnh những con người nhỏ bé của một dân tộc nhỏ bé, nhưng yêu tha thiết đất nước mình, chống lại một nước Mỹ hùng cường. Nên khi đó, thế giới dấy lên một sự ủng hộ với Việt Nam. Họ cho rằng người nào ủng hộ Việt Nam chiến đấu thì người ấy là người tốt. Đó là một thứ tình cảm rất khó cưỡng lại. Và chính việc chúng ta làm đã ngày càng giúp nước Bạn lớn nhận ra rằng Việt Nam có khả năng chiến thắng, hoặc ít nhất là khả năng cầm cự lâu dài. Và khi Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam, thì chính họ, những người bạn lớn của chúng ta rất có lợi.
Cha tôi, với sự chỉ đạo của Bác Hồ đã bằng mọi cách, để tiến dần từng bước thuyết phục để các nước này phải ủng hộ mình.
- Con đường mà cha ông và Đảng ta tin tưởng và lựa chọn là con đường mà như chúng ta đã biết, đã giúp đất nước thống nhất. Nhưng chúng ta phải hy sinh nhiều xương máu. Tôi từng nghe những ý kiến cho rằng sự cứng rắn của Trung ương mà đứng đầu là Bí thư thứ nhất đã khiến cho chúng ta phải trả giá quá nhiều cho chiến thắng đó. Tướng Westmoreland của Mỹ cũng từng nói về điều đó.
- Những bài học và kinh nghiệm về chiến thắng giải phóng miền Nam đã được chúng ta tổng kết nhiều rồi, tôi có nói cũng không bao giờ đủ. Nhưng về vấn đề này, tôi nghĩ như hai miền Nam - Bắc Triều Tiên bây giờ chưa thống nhất, thì đến sau này thống nhất, điều gì sẽ xảy ra với họ - tôi không hình dung ra được! Liệu nó có bi thương hơn sự chết chóc mà chúng ta từng phải gánh chịu hay không, khi mà bóng ma của một cuộc chiến tranh nguyên tử luôn đe dọa họ? Chúng ta đều không thể nói trước được!
Tôi cũng thường nghĩ về việc nếu đất nước mình không lựa chọn con đường đấu tranh vũ trang, nếu chúng ta chưa thống nhất, thì điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì? Điều đó chúng ta cũng không thể mường tượng được. Nhưng tôi tin rằng, đất nước Việt Nam thống nhất hôm nay là giấc mơ của rất nhiều người Triều Tiên, nhất là những người phải chịu cảnh gia đình ly tán về sự chia cắt đó.
Một lần tôi sang Hàn Quốc, một ông Đại biểu quốc hội Hàn Quốc đã nói với tôi thế này: “Về kinh tế, các ông có thể thua chúng tôi 30 năm, nhưng về thống nhất đất nước, chúng tôi cách các ông không biết bao nhiêu năm!”.
Chắc chắn những người lính đã nằm lại trên chiến trường miền Nam sẽ cảm thấy sự hi sinh của mình cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cho một nền tảng để chúng ta dựng xây tương lai là xứng đáng và tự hào. Nếu không có những sự hi sinh đó, có thể trong tương lai sẽ có những sự hi sinh gấp vạn lần như vậy.
Giống  như ta không thể nói vua Quang Trung đã hi sinh bao nhiêu người để giành lại đất nước? Và đất nước này có đáng để giành lại hay không?
Giống như ta không thể thắc mắc tại sao các vị Vua nhà Trần phải lãnh đạo nhân dân 3 lần chống lại vó ngựa của quân Nguyên Mông mà không đầu hàng để bảo vệ tính mạng của người dân?
Nói thế là vô cùng vô nghĩa!
Khi phải chống lại một nước Mỹ mạnh hơn chúng ta cả trăm lần, sự hi sinh là không thể tránh khỏi. Chính người Mỹ cũng từng nói, họ nghĩ đáng lẽ ra người Việt Nam sẽ phải đổ máu nhiều hơn thế cho độc lập này, khi mà bom đạn Mỹ đã đổ vào miền Nam trong mấy chục năm chiến tranh như thế.
Cái suy nghĩ của nhiều người bây giờ cho rằng sự hi sinh của những người lính cho độc lập dân tộc, là một sự hi sinh không xứng đáng - đó là một sự phản bội, một sự vô ơn với người đã khuất.
Tôi tin Tướng Westmoreland không hiểu hết nước Mỹ. Nếu đặt nước Mỹ trong hoàn cảnh bị xâm lược như chúng ta, ví dụ như người ngoài hành tinh xuất hiện và đe dọa họ chẳng hạn, thì trong hoàn cảnh đó, tôi tin, sẽ có không ít người Mỹ xả thân để bảo vệ đất nước họ. Mà, để đạt được mục đích là chiến thắng, nước Mỹ đã từng ném hai quả bom nguyên tử xuống nước Nhật, nên Westmoreland càng không có lý do để nói câu này.
- Ông có biết có quyết định của TBT Lê Duẩn đến giờ vẫn gây tranh cãi. Như cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 chẳng hạn...?
Nói về Tết Mậu Thân năm 1968, chúng ta sẽ phải nhớ đó là thời điểm Westmoreland đề nghị Mỹ tăng gấp đôi số lượng quân Mỹ tại Việt Nam lên 1 triệu quân và đưa chiến tranh ra miền Bắc. Khi đó Chính phủ Mỹ đang đứng giữa hai lựa chọn hoặc là tăng quân viện trợ, tiếp tục cuộc chiến, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, hoặc dần rút khỏi chiến tranh Việt Nam.
Nếu chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, nếu ta mất Hải Phòng, mất Quảng Bình, nghĩa là mất tất cả những con đường chi viện cho miền Nam thì đó sẽ là điều vô cùng tồi tệ. Và cú đánh Tết Mậu Thân - một trận chiến tổng lực, đánh vào cả Đại sứ quán Mỹ và Dinh Độc Lập đã làm người Mỹ choáng váng. Cú đánh đó đã khiến người Mỹ quyết định ngồi vào bàn đàm phán và tính đến phương án rút quân khỏi Việt Nam. Tức là cuộc chiến đã bẻ ngoặt sang một hướng khác hoàn toàn có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Chúng ta đã phải trả giá không ít cho bước ngoặt ấy. Nhưng sẽ phải đặt một vấn đề như thế này: Chúng ta sẽ trả giá cho đợt tổng tấn công đó, hay chúng ta sẽ trả giá cho hai mươi năm nữa, hoặc thậm chí lâu hơn mới giải phóng miền Nam? Có gì đảm bảo sự trả giá lâu dài đó sẽ bớt đắt đỏ hơn?
Khi tôi ngồi với ông Võ Văn Kiệt trong một cuộc trò chuyện thân mật, ông nói: “Chú nói thật với mày, chú thấy đánh Mậu Thân là xác đáng, là phải đánh bằng được. Chú chỉ không hiểu tại sao lại đánh đợt 2, đợt 3, vì khi đó yếu tố bất ngờ, bí mật không còn”. Thú thật tôi đã rất hoang mang khi nghe điều đó. Nhưng tình cờ, khi xem bộ phim tài liệu về ông Phạm Xuân Ẩn, tôi đã biết được một chi tiết. Ngay sau đợt tấn công đầu tiên, ông Ẩn chuyển một tài liệu mật ra Hà Nội mà ông Ẩn cho rằng vô cùng quan trọng, đó là nội dung bức điện của Johnson gửi Westmoreland, lệnh cho bằng mọi giá không thể để xảy ra chuyện tương tự. Chính vì nắm được bức điện đó, mà chúng ta phải có cuộc tấn công đợt 2, đợt 3. Đó là lý do người Mỹ đồng ý ngồi vào bàn đàm phán. Việc biết được tài liệu này khiến tôi càng tự tin hơn vào những quyết định của Trung ương và cha tôi trong Tết Mậu Thân. Và càng hiểu điều đó, tôi càng trân trọng những người lính đã hi sinh vì đại cục.
- Và sau 20 năm trời lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, với bao nhiêu mất mát đó, cha ông đã đón nhận tin thống nhất như thế nào?
Lúc 11 giờ 30 phút, khi nhận được điện thoại báo tin từ Bộ Tổng Tham mưu, cha tôi không nhảy cẫng lên vui mừng như nhiều người khác. Nhưng khi đó ông đã gọi chú Phú - người cần vụ lâu năm của ông châm cho ông một điếu thuốc. Đó là điếu thuốc đầu tiên ông hút sau 20 năm ra miền Bắc. Đó là lần đầu tiên sau 20 năm, ông cho phép mình làm một điều rất cá nhân, một điều có hại đến sức khỏe - chỉ hút một điếu thuốc mà thôi!

Lan Hương (thực hiện)
Nguồn: cand.com.vn

THIẾU TƯỚNG LÊ KIÊN TRUNG: “TÔI KHÔNG BAO GIỜ NÉ TRÁNH KHI NÓI VỀ CHA MÌNH”


Là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an, nên khi nhận lời trò chuyện với Chuyên đề An ninh thế giới Giữa tháng - Cuối tháng về Tổng Bí thư Lê Duẩn nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của ông, tôi đã nghĩ Tướng Lê Kiên Trung khó mà thẳng thắn, sòng phẳng với những câu hỏi mà tôi sẽ hỏi anh. Nhưng sau buổi trò chuyện 2 tiếng đồng hồ, tôi biết mình đã vội vàng khi dự đoán thế!
Cha tôi quyết đoán, nhưng không bất chấp
- Nhà báo Tô Lan Hương: Thưa Thiếu tướng Lê Kiên Trung, khác với nhiều người thân trong gia đình mình, anh hầu như chưa từng xuất hiện trên báo chí và chia sẻ những câu chuyện về Tổng bí thư (TBT) Lê Duẩn?
Thiếu tướng Lê Kiên Trung: Thực ra tôi đã từng viết một bài trên Báo An ninh thế giới nhiều năm trước với những câu chuyện của tôi về cha. Nhưng đặc thù công việc khiến tôi không phải lúc nào cũng thấy mình nên xuất hiện trên mặt báo để chia sẻ những suy nghĩ trong lòng.
- Thế thì, khi nhận lời trò chuyện với Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng chúng tôi, với cương vị mà anh đang nắm giữ, anh có ngại ngần nếu tôi hỏi anh những câu hỏi mà bao năm qua, nhiều người vẫn cho là nhạy cảm, về TBT Lê Duẩn?
Bạn hãy cho tôi một lý do để một người con phải ngại ngần, né tránh khi nói về cha mình?! Đặc biệt, một con người của dân tộc, của nhân dân, hết đời cống hiến hy sinh vì sự nghiệp của đất nước.
- Vậy thì, tôi muốn bắt đầu với một điều giản dị. Có phải khi còn bé, anh là người con được gần gũi với TBT Lê Duẩn và được ông thương yêu, cưng chiều nhiều nhất? Ký ức của anh về người cha chính khách có gì khác với ký ức của những đứa con bình thường?
Ký ức bao trùm trong tôi về ba có lẽ là ký ức về tình thương. Nói là ba thương tôi hơn những anh chị em khác cũng không hẳn là đúng. Tôi không dám nói ba tôi dành cho tôi nhiều tình thương nhất, nhưng tôi may mắn là đứa con được gần ba nhiều nhất so với các anh chị trong nhà.
Thật ra ba tôi đi hoạt động cách mạng từ sớm, thời gian ông gần gũi gia đình, con cái gần như không có. Các anh chị tôi, từ lúc đẻ ra cho đến khi trưởng thành, hầu hết đều chỉ được gặp ba khi ông ghé thăm nhà. Tôi may mắn  sinh ra khi ba tôi đã ra Hà Nội, trong bối cảnh miền Bắc đã được hưởng hoà bình.
Mẹ tôi khi đó đang học ở Trung Quốc, tôi lại là con út trong nhà, nên ba tôi, với tâm trạng của một người cha “gà trống nuôi con”, thương tôi phải xa mẹ, đã luôn dành cho tôi tình yêu thương đặc biệt.
Dù là TBT và phải đảm đương trách nhiệm lớn lao với việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng ông đã luôn để tôi là “cái đuôi” của ông trong suốt nhiều năm trời. Tôi ăn cùng ba, quanh quẩn bên ông khi ông làm việc và tôi ngủ cùng giường với ông cho đến tận khi học lớp 7, lớp 8.
- Điều đặc biệt nhất mà anh cảm nhận ở ba mình?
Cũng là tình thương! Nhiều người nghĩ với vị trí người lãnh đạo đất nước, ba tôi là người lạnh lùng, cứng rắn, nhưng thực ra, ông vô cùng tình cảm với người xung quanh.
Không chỉ là tình cảm của người cha dành cho con, tình cảm của người chồng dành cho vợ, mà còn là tình cảm giữa người với người. Ba tôi coi những người giúp việc cho ông như người thân trong nhà. Ông cũng là người mà nếu đi ra đường, gặp một người nghèo, sẽ dễ dàng rơi nước mắt. Nhiều người đi làm cách mạng bắt đầu từ lý tưởng, từ lý trí, nhưng ba tôi đi làm cách mạng bắt đầu từ tình thương.
Khi còn nhỏ, có lần bà nội tôi nói với ba tôi: “Đến bao giờ nhà mình mới có một nồi khoai như nồi khoai nhà bên cạnh?”.
Ông kể ông đã khóc khi nghe câu nói ấy, dù khi đó ông chỉ là một đứa trẻ nhỏ đang ngồi trong lòng mẹ. Ông thương xót cái ao ước nhỏ bé đến tội nghiệp của bà nội tôi bao nhiêu thì ông thấy căm giận chế độ đã tạo ra cả một dân tộc nghèo khổ, với một lớp người mà ước mơ của họ chỉ là một nồi khoai để ăn bấy nhiêu. Và vì muốn thay đổi điều đó, ông đã đi làm cách mạng.
- Anh nói, TBT Lê Duẩn đi làm cách mạng từ tình thương, nhưng trong một giai đoạn lịch sử dài sau này, khi nhắc về TBT Lê Duẩn, người ta vẫn cho rằng ông rất độc đoán trên cương vị của mình khi ông còn nắm quyền?
Tôi vẫn luôn biết có những người nhìn ba tôi theo cách đó. Nhưng, như những gì tôi đã được chứng kiến về cha mình, thì cảm nhận của tôi hoàn toàn khác. Năm 1954, sau Hiệp định Geneve, ba tôi đưa mẹ tôi lên tàu ra miền Bắc, còn ông thì bí mật ở lại miền Nam.
Trước lúc chia tay, ông nói với bà: “Anh thương vợ con anh như thế nào, thì anh cũng thương đồng bào, đồng chí của mình như thế, cho nên anh phải ở lại, cùng với đồng bào đồng chí miền Nam chiến đấu để giành độc lập thực sự”.
Và nếu không phải vì Bác Hồ đã kiên quyết yêu cầu ba tôi ra miền Bắc năm 1957 để nhận nhiệm vụ mới, có lẽ ba tôi sẽ vẫn ở lại miền Nam, dù có lẽ ông hiểu, khi Trung ương gọi ông ra miền Bắc, có nghĩa là ông sẽ được tin cậy giao những vai trò quan trọng hơn trong bộ máy lãnh đạo đất nước. Một con người độc đoán, sẽ khó có tình cảm như thế với đồng bào, đồng chí.
Một điều nữa, trong cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 20 năm mà mỗi gia đình ở cả phía bên này và phía bên kia đều phải gánh chịu nỗi đau mất mát, cộng thêm với sự khác biệt về ý thức hệ, thì sự thù hận là khó tránh khỏi.
Trong nhiều cuộc chiến tranh, phe thắng cuộc đã có sự trả thù với những kẻ thất bại. Nhưng sau khi giải phóng xong, Đảng ta mà người đứng đầu là ba tôi đã đưa ra mệnh lệnh: Bằng bất cứ giá nào cũng không được động chạm đến những người thuộc chính quyền cũ. Và, thay vì một cuộc tắm máu như báo chí nước ngoài đã dự đoán trước giải phóng, những người thuộc chính quyền cũ chỉ bị đưa đi cải tạo, giáo dục…
Tôi nghĩ ba tôi là người quyết đoán. Nhưng sự quyết đoán của ông nằm trong chừng mực của một người làm chính trị có cân nhắc trước sau, chứ không phải bất chấp.
Ông vẫn nói, làm chính trị là phải biết chờ đợi. Vì có những việc dù mình nghĩ đúng, nhưng mình vẫn phải chờ đợi sự đồng lòng từ những người xung quanh. Chính từ những việc đó, mà sau này, đã có những người hiểu không đúng hoặc đánh giá không chính xác về phương pháp và cách làm của ông.
Nhiều người phê phán cha tôi vì việc duy trì nền kinh tế bao cấp quá lâu. Nhưng ngay sau khi giải phóng xong, khi mà nhiều người trong chúng ta vẫn còn coi Mỹ là kẻ thù, ba tôi đã giao cho Bộ trưởng Ngoại giao khi đó là ông Nguyễn Cơ Thạch sang thăm Mỹ, bằng mọi giá thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ.
Ba tôi đã muốn giữ nguyên nền kinh tế thị trường ở miền Nam, song song với nền kinh tế bao cấp ở miền Bắc, vì chính ông cũng muốn so sánh ưu điểm và nhược điểm của hai nền kinh tế đó. Vì ba tôi và các đồng chí của mình khi đó đều được giáo dục và trưởng thành trong hệ thống lý luận về XHCN theo mô hình Xôviết của Stalin.
Nhưng ông cảm nhận được, nền kinh tế thị trường có những ưu điểm của nó, và ông muốn có cơ hội để so sánh giữa hai mô hình đó, để tìm được con đường tốt nhất cho đất nước.
Dù chuyện này chưa bao giờ được ông công khai trong các nghị quyết của Bộ Chính trị, nhưng trong chỉ đạo của ba tôi và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng với ông Nguyễn Cơ Thạch trước chuyến thăm Mỹ sau giải phóng, tôi biết rằng đã có nội dung đó. Tiếc là cuộc đàm phán đó đã không thành công. Vì khi đó, nhiều người bên phía chúng ta vẫn còn coi Mỹ là kẻ thù, và bản thân người Mỹ cũng có suy nghĩ ngược lại.
Với họ, việc một nước lớn như Mỹ thất bại trong cuộc chiến với một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam đã làm tổn thương nặng nề lòng tự tôn của họ. Không thể dễ dàng để hai nước có thể ngay lập tức nối lại quan hệ ngoại giao, bình thường hoá quan hệ. Thậm chí, sau đó Mỹ còn cấm vận Việt Nam nhiều năm liền. Nên cuối cùng, chuyến đi của ông Nguyễn Cơ Thạch đã thất bại.
- Cứ cho là chuyến đi đó thất bại, thì tôi nghĩ, vẫn có nhiều cách để duy trì và phát triển mô hình kinh tế thị trường ở miền Nam song song với mô hình bao cấp ở miền Bắc, nhưng như chúng ta đã biết, ngày đó, nền kinh tế bao cấp đã được nhân rộng ở cả hai miền. Tại sao ba ông không làm điều đó?
Bối cảnh lịch sử lúc đó có lẽ đã khiến ba tôi không dễ thực hiện khát vọng và mục đích của mình. Khi mà Mỹ từ chối quan hệ ngoại giao với Việt Nam, và bản thân những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin theo hệ thống xã hội chủ nghĩa mô hình Xôviết của Stalin, thì việc đưa ra một ý tưởng như thế là trái với lý tưởng của nhiều người.
Tôi vẫn nhớ hồi đó, khi Nam Tư đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, họ đã bị khai trừ ra khỏi hệ thống các nước XHCN và bị xem như một nước xét lại. Cho nên, không thể dễ dàng bày tỏ quan điểm của mình và thuyết phục những người khác cùng đồng lòng với quan điểm đó, nhất là trong một giai đoạn nhạy cảm như đất nước ta khi đó.
Mà anh chỉ có thể thực hiện nó âm thầm ở chỗ này, chỗ kia, cho đến lúc lý thuyết của anh chứng minh được là nó có sức sống, là nó thuyết phục, là thành công, thì đến lúc đó, anh mới có thể quay lại thuyết phục những người khác. Vì ba tôi hiểu nếu ngay lập tức thay đổi có thể sẽ khiến sự chia rẽ trong Đảng. Và hơn lúc nào hết, trong điều kiện đất nước lúc đó Đảng ta càng cần phải coi trọng sự đồng lòng, thống nhất.
- Bây giờ là thời điểm TBT Lê Duẩn đã mất được 30 năm. Vài ngày trước, trong ngày giỗ lần thứ 30 của TBT, tôi có đến gia đình ông và nhìn thấy có những lẵng hoa gửi đến từ các Ủy viên Bộ Chính trị và một số đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước đã đến dâng hương tại số 6 Hoàng Diệu, ngôi nhà TBT Lê Duẩn sống lúc sinh thời.  Vài năm trở lại đây, báo chí đã nhắc lại về vai trò của ông Lê Duẩn trong giai đoạn ông làm lãnh đạo. Nhưng có một thời kỳ dài, người ta ít nhắc đến TBT Lê Duẩn. Anh có biết tại sao?
Bạn hỏi không đúng chỗ rồi. Và cũng không hẳn như vậy! Nhưng tôi nghĩ thế này, chúng ta không thể không thừa nhận, trong Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn tồn tại những sự khác biệt về tư tưởng. Ví dụ như quan điểm cải cách ruộng đất, quan điểm về chiến tranh cách mạng miền Nam, quan điểm về thống nhất đất nước, quan điểm về việc áp dụng mô hình kinh tế bao cấp hay thị trường, quan điểm về đường lối ngoại giao…
Cho nên việc có người này hay người khác ủng hộ hay không ủng hộ, đồng tình hay không đồng tình với đường lối của cha tôi khi ông còn nắm quyền có lẽ cũng là chuyện bình thường.
Ba tôi kể, ngay thời kỳ chiến tranh giải phóng miền Nam, có những người trong chúng ta sợ Mỹ, có những người thân với Liên Xô, có những người thân với Trung Quốc. Thế nên có nhiều chuyện, Bộ Chính trị vừa họp xong, nước này nước kia đã tìm cách can thiệp. Nhiều người không muốn chúng ta giải phóng miền Nam đâu. Nhưng Đảng ta và ba tôi quyết tâm làm việc đó đến cùng.
Một trong những điều buồn nhất của ba tôi trong cuộc đời làm cách mạng của ông chính là Hiệp định Geneve. Ông từng kể ông đã khóc rất nhiều khi đồng bào miền Nam đổ ra đường, chia tay con em mình ra miền Bắc, họ giơ hai ngón tay, hẹn hai năm sau Tổng tuyển cử, hẹn hai năm sau gặp lại.
Nhưng ba tôi hiểu, sẽ không bao giờ là hai năm, sẽ không bao giờ có Tổng Tuyển cử… Và việc rút toàn bộ lực lượng vũ trang ra miền Bắc sẽ tạo điều kiện cho chính quyền Ngô Đình Diệm củng cố sức mạnh ở miền Nam, điều đó đồng nghĩa với việc rồi đây miền Nam sẽ còn đổ máu. Mà điều ba tôi đau xót chính là, chúng ta có khả năng giải phóng miền Nam, nhưng đã phải chấp nhận ký vào Hiệp định Geneve một cách đầy thiệt thòi vì sự tính toán của các nước lớn.
Cho nên khi cử ông Lê Đức Thọ đi đàm phán ở Paris, Bộ Chính trị và ba tôi giao cho ông Lê Đức Thọ toàn quyền quyết định, nhưng với điều kiện: “Anh đàm phán cái gì thì đàm phán, nhưng có hai vấn đề không bao giờ phải bàn: quân đội miền Bắc ở lại miền Nam và Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam”. Nghĩa là ba tôi và Đảng ta cho ông Lê Đức Thọ được quyền chủ động trên bàn đàm phán, nhưng có những điều ông không bao giờ nhân nhượng.
Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc
- Tôi từng nghe kể TBT Lê Duẩn đã báo cáo với Bác Hồ: “Chúng ta muốn thắng Mỹ thì nhất định không được sợ Mỹ, nhất định không sợ Trung Quốc, nhất định không được sợ Liên Xô…”? Anh có nghĩ ba mình là người cứng rắn, khi ông không bao giờ sợ các nước lớn?
Ba tôi không sợ Mỹ, vì ông hiểu Việt Nam có thể thắng Mỹ. Còn chuyện không sợ Trung Quốc là một câu chuyện dài.
Ba tôi là người yêu thích lịch sử. Ông đọc đi đọc lại những câu chuyện về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Và vì thế, ông biết, trong những cuộc chiến tranh kéo dài suốt mấy nghìn năm đất nước tồn tại, ngoài hai lần chống Pháp và Mỹ, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là lịch sử chống quân xâm lược từ phương Bắc kéo xuống.
Và dù trong thời gian ngắn hay dài, thì cuối cùng, chúng ta cũng đều đánh đuổi được giặc ngoại xâm phương Bắc. Dân tộc này trong lịch sử chưa từng sợ phương Bắc, và tôi nghĩ ba tôi thấm nhuần truyền thống ấy.
Từ khi còn rất sớm, ba tôi đã nhận ra, dù họ viện trợ cho chúng ta rất nhiều, dù tiếng là hai nước Cộng sản anh em, thì họ vẫn mang những ý đồ không khác gì những triều đại trước đây.
Ngay cả trong các cuộc gặp với ba tôi, một lãnh đạo của bạn đã nói: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Các đồng chí không cần làm cách mạng, tôi là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”.
Khi nghe câu nói đó ba tôi đã cảm nhận ra ngay ý đồ của họ và dặn lòng mình luôn phải cảnh giác với dã tâm ấy. Ba tôi từng viết về một cuộc đối thoại giữa ông và một lãnh đạo của họ (xin phép không nói rõ tên của nhà lãnh đạo đó - xin đổi là ông ta - PV) như thế này:
“Ông ta hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi (Lê Duẩn) trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Ông ta hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Ông ta  nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Ông ta  hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Ông ta hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Ông ta nói: Một tỉnh của nước tôi có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?”. Tôi nói: “Đúng”. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?”. Tôi nói: “Đúng”. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?”. Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Nếu các ông tìm cách xâm lược đất nước tôi. Các ông có biết điều đó không?...”.
Vì nhận thức được ý đồ của họ, cũng như các tiền nhân, nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta và ba tôi cũng giữ tinh thần cảnh giác, ngay cả khi họ là nước viện trợ rất lớn cho chúng ta trong kháng chiến chống Mỹ.
Có lần, họ đề nghị viện trợ cho chúng ta 500 xe tải chi viện cho tuyến đường Trường Sơn, với điều kiện họ sẽ cử lái xe đi kèm. 500 xe hồi đó là vô cùng quý giá với Việt Nam. Nhưng chúng ta đã kiên quyết từ chối.
Khi đó có đồng chí lãnh đạo đề nghị ba tôi “nhận vài chiếc cho người ta vui”, nhưng ba tôi và lãnh đạo không đồng ý. Ba tôi cũng báo cáo với Bác Hồ: “Chúng ta muốn thắng Mỹ, thì không được sợ Mỹ, nhưng nhất định cũng không được sợ Trung Quốc”. Câu nói ấy của ông hẳn đã đến tai người Trung Quốc…
- Hầu hết những nhà nghiên cứu lịch sử đều nhận định, TBT Lê Duẩn là nhà lãnh đạo Việt Nam có đường lối cứng rắn nhất với phương Bắc. Anh có đồng ý với ý kiến của nhiều người, khi họ cho rằng sự cứng rắn của ông Lê Duẩn là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Biên giới phía bắc?
Ba tôi cứng rắn với họ thì đúng. Nhưng những người nói ông là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Biên giới năm 1979 có lẽ là không hiểu lịch sử. Suốt thời phong kiến của chúng ta, họ đã vì ghét ông vua nào mà đem quân xâm lược mảnh đất này? Không vì cha tôi, họ vẫn tìm cách chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, rồi bây giờ là âm mưu chiếm toàn bộ biển Đông. Họ chẳng ghét ai cả.
Chỉ có một lý do duy nhất, ý đồ xâm lược của họ là không bao giờ thay đổi. Ba tôi, mang trong mình bản năng của người Việt suốt chiều dài lịch sử: không cần biết họ mạnh thế nào, nhưng anh cứ xâm phạm biên giới chúng tôi là chúng tôi đánh.
Còn nói về sự cứng rắn với họ, ba tôi có lẽ không thể so với cụ Lý Thường Kiệt. Bậc tiền nhân ấy đã chủ động đánh phương Bắc ngay khi họ lộ ý đồ sang xâm chiếm nước Việt. Trừ những kẻ bán nước, còn thì, đã là người Việt Nam, nếu thực sự yêu dân tộc này, nếu thực sự yêu đất nước này, sẽ đều hành động như thế, bất kể kẻ thù có mạnh và dã tâm đến đâu.
Ba tôi, như bao người Việt yêu nước bằng cả trái tim mình, đã luôn hiểu rằng, họ là mối đe dọa truyền kiếp, là dân tộc mà trong bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, bất cứ triều đại nào, chế độ nào, cũng không từ bỏ ý đồ xâm chiếm Việt Nam. Lịch sử xâm lược của họ là lịch sử mở rộng lãnh thổ về phương Nam.
Và, cho đến tận ngày hôm nay, với những yêu sách về chủ quyền ở biển Đông, về đường lưỡi bò, vẫn có thể chứng minh một điều, những nhận định của chúng ta về dã tâm của họ chưa bao giờ sai lầm. Khi còn nắm quyền, ba tôi vẫn cố gắng giữ một mối quan hệ ngoại giao mềm mỏng với họ.
Năm 1961, khi Bác Hồ cử ba tôi đi dự Hội nghị Quốc tế Cộng sản vào thời điểm quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô đang căng thẳng. Khi đó, Trung Quốc rất đơn độc, vì các nước khác đều ủng hộ Liên Xô. Chỉ có duy nhất đoàn Việt Nam do ba tôi dẫn đầu là có ý kiến ủng hộ Trung Quốc. Nhưng Đảng ta do ông đứng đầu không bao giờ cho phép ai có hành động xâm phạm chủ quyền đất nước này.
- Đến nay đã 30 năm rồi sau ngày mất của TBT Lê Duẩn, anh có nghĩ, sự cứng rắn của cha anh là một trong những lý do mà sau này ông ít được nhắc đến?
Tôi nghĩ ba tôi là nhà lãnh đạo đất nước trong một giai đoạn lịch sử phức tạp và cam go của đất nước. Với nhiều ý kiến xung đột lẫn nhau. Thế nên, như tôi đã nói ban đầu, việc chấp nhận ông hay một bộ phận không chấp nhận quan điểm của ông, ủng hộ ông hay không ủng hộ ông cũng là điều tất yếu. Ba tôi không chịu nói, chịu kể về mình giống như một số người khác.
Có những người có cả chục cuốn hồi ký, nhưng ông thì khác, ông không hề viết một cuốn sách nào kể về mình. Ông không bao giờ chịu giải thích để người ta hiểu hơn về những việc ông làm. Vì thế đến giờ, nhiều người chưa thực sự hiểu ba tôi như ông vốn có.
Nhưng tôi tin, cuối cùng thì những sự thật lịch sử sẽ được sáng tỏ đến tận cùng, và người ta sẽ hiểu hơn về ông và những việc ông làm. Tôi vẫn nghĩ ba tôi là người thiệt thòi. Tất nhiên làm cách mạng thì phải chịu thiệt thòi.
Chúng ta ghi nhớ công ơn của các liệt sĩ, của các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì đất nước. Nhưng ba tôi, người lãnh đạo có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của cuộc chiến ấy, đã ít được nhắc đến suốt một thời gian. Đó là điều mà lịch sử đã không công bằng với ông. Song tôi tin điều đó đang và sẽ được nhìn nhận công bằng hơn.
- Và cảm giác của anh - một người con, như thế nào trong suốt giai đoạn ấy, giai đoạn mà tên tuổi ông ít được nhắc đến như thế?
Dĩ nhiên là tôi buồn. Không chỉ buồn cho cá nhân tôi, gia đình tôi. Vì tôi cho rằng đã có những việc, câu chuyện của ba tôi đã không được đề cập chính xác, đầy đủ, khoa học. Tôi cũng rất buồn và mãi trăn trở một điều, tại sao có những sự thật mà sau bao nhiêu năm chúng ta vẫn nhất định phải giấu kín? Và tôi cho rằng, đó không phải là cách hành xử khách quan, minh bạch và khoa học.
- Nói thế thì hẳn là anh khao khát đến một ngày, tất cả tư liệu về cuộc đời của TBT Lê Duẩn, về những quan điểm cũng như quyết định của ông trong những thời điểm lịch sử và cả những đánh giá về vai trò của ông trong giai đoạn ông nắm quyền sẽ được công bố?
Đó chính xác là mong ước lớn nhất của tôi và những người thân trong gia đình suốt nhiều năm qua. Cha tôi và nhiều nhà lãnh đạo đất nước thời kỳ đó đã mất mấy chục năm trời. Và tôi không hiểu lý do vì sao, có những điều đến giờ này chúng ta vẫn cần giữ bí mật.
Nhưng tôi nghĩ, những người làm công tác nghiên cứu, những người làm báo như chị, phải được tiếp xúc với những sự thật đó, để có cái nhìn chính xác và đầy đủ nhất về lịch sử. Và nhân dân cũng có quyền được biết, những nhà lãnh đạo của họ đã làm gì, đã ứng xử thế nào, trong những thời khắc lịch sử của đất nước.
- Cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này!
Tô Lan Hương (thực hiện)
Nguồn: cand.com.vn

ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH VIẾT VỀ "NGƯỜI ANH" LÊ DUẨN

Từ trái qua: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Trường Chinh, Tổng bí thư Lê Duẩn

“Chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng, nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI mới có đổi mới, ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước”, Đại tướng Lê Đức Anh nhớ lại.
“Ông Hai trăm Bu-gi”
Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đầu năm 1947 ở Đồng Tháp Mười. Lúc đó ở Nam Bộ tổ chức cộng sản có hai phái  “Tiền Phong” và “Giải Phóng” cùng lãnh đạo quần chúng làm cách mạng  nhưng hai phái không đoàn kết mà lại tranh giành ảnh hưởng với nhau. Anh Lê Duẩn chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó hợp nhất, củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức Đảng các cấp trong toàn Xứ ủy để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách đang diễn ra.
Từ hội nghị này, anh em Nam Bộ đặt cho anh cái biệt danh “Ông Hai trăm Bu-gi”, ý nói đôi mắt và tư duy mẫn tuệ  sáng như ngọn đèn hai trăm Bu-gi.
Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có nhiều lần từ chiến trường được ra Bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện gặp anh nhiều hơn. Không phải ở anh cái gì tôi cũng tán thành 100%, nhưng có hai điểm thì tôi luôn luôn nhất trí:
Một là, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày đêm anh đau đáu suy nghĩ việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản “Đề cương cách mạng miền Nam” ra Bắc. Đó là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết 15, tạo nên bước nhảy vọt cho cách mạng miền Nam.
Đồng chí Lê Duẩn báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam (1957)
Năm 1972, quốc tế diễn ra nhiều sự kiện gây khó khăn lớn đối với cách mạng Việt Nam. Một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị - Bộ chỉ huy tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Rồi tiến tới quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, tiến tới giải phóng trước tháng 5/1975 khi thời cơ đã tới. Đây là một quyết định sáng suốt. Tôi cho rằng, quyết định này xuất phát từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng.
Hai là, anh luôn là một con người đôn hậu. Sự đôn hậu không chỉ thể hiện khi anh đưa ra những chủ trương, chính sách để cải thiện, mang lại cuộc sống cho người dân ngày càng tốt hơn, mà còn cả trong tiếp xúc, ứng xử đối với anh em, đồng chí, với bạn bè quốc tế, kể cả khi đối với sự việc và con người không đáng được nhận sự nhân ái và lòng bao dung đó.
Hội nghị 81 Đảng cộng sản và những vết rạn
Cuối những năm 50, đầu những năm 60 (của thế kỷ 20), tình hình quốc tế có hai diễn biến gây bất lợi và cản trở rất lớn đối với cách mạng Việt Nam: Một là, với tư duy “Một ngọn lửa nhỏ cũng dễ làm bùng cháy cả cánh đồng, một xung đột vũ trang nhỏ cũng dễ thành ngòi nổ chiến tranh hạt nhân”, xu hướng “thi đua hòa bình, thủ tiêu đấu tranh vũ trang, cầu an, quá đề cao nguy cơ chiến tranh hạt nhân” đang thắng thế trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới, mà dấu mốc là Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân, mùa Thu năm 1960 tại Mat-xcơ-va do Khơ-rút-xốp, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên-xô chủ trì.
Hai là, sự mâu thuẫn và rạn nứt quan hệ giữa Liên-xô và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện tại cuộc gặp mặt các Đảng cộng sản và công nhân ở Bucarest (Rumani), tới Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mat-xcơ-va thì công khai bộc lộ ra. Khơ-rút-xốp thì chỉ trích ban lãnh đạo Trung Quốc là chủ nghĩa giáo điều; còn Trung Quốc thì kết tội ban lãnh đạo Liên-xô là chủ nghĩa xét lại hiện đại.
Sau Hội nghị 81 Đảng, giữa hai bên ngày càng căng thẳng: Các quan hệ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật bị đình chỉ, quan hệ ngoại giao hạ xuống mức thấp nhất; dọc biên giới hai nước, các cuộc khiêu khích vũ trang liên tiếp xảy ra, cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới.
Hai bên chửi nhau công khai trên trường quốc tế, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động dụ dỗ, gây sức ép để lôi kéo các đảng khác ngả về phía mình… Tình hình quốc tế nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của các thành viên trong Ban lãnh đạo đảng ta.
Từ sau 1954, trong nội bộ ta có ba khuynh hướng: Một khuynh hướng kiên quyết đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào, Bắc Nam sum họp. Đứng đầu và tiêu biểu cho khuynh hướng này là Bác Hồ, các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh. Một khuynh hướng là: Mỹ nó mạnh quá, không thể đánh được.
Một khuynh hướng khác: Nếu đánh nó thì nguy cho cả miền Bắc, hãy làm theo tinh thần của Hội nghị 81 Đảng -Thi đua hòa bình, tập trung xây dựng miền Bắc Việt Nam, xây dựng phe XHCN ngày càng mạnh lên, phe TBCN ngày càng yếu đi, đến lúc sắp lụi tàn nó sẽ đầu hàng…
Có thể nói, đây là một trong những thời kỳ phức tạp nhất về chính trị đối với việc hoạch định đường lối chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết 15 Trung ương ra đời trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp như vậy chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và trưởng thành vượt bậc của Đảng ta cả về lý luận và thực tiễn, cả về đường lối và phương pháp cách mạng. Nó thể hiện rõ đường lối độc lập, tự chủ và sách lược mềm dẻo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền Nam.
Nghị quyết 15 thật sự là một nghị quyết về “chuyển chiến lược” từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch. Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam[1].
Chuyện chưa từng kể về Việt Nam và hai “người anh lớn”
Cách đây mười một năm, mùa Hè năm 2005, khi anh Phạm Văn Xô bệnh nặng, tôi tới thăm anh tại Bệnh viện Thống Nhất, được anh cho biết: Anh và anh Phan Văn Đáng được thay mặt Xứ ủy Nam Bộ ra dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng).
Tháng 8 /1957, hai anh ra tới Hà Nội, chờ đợi hết năm 1958, đến tháng 1/1959, mới được dự họp, nhưng không phải họp toàn Ban Chấp hành Trung ương ở hội trường, mà chỉ là thảo luận ở tổ để quán triệt tinh thần “Thi đua hòa bình”. Sau hội nghị đợt 1 không thấy kết quả, các anh buồn nản xin trở về Nam.
Trước khi về, đồng chí Lê Duẩn bố trí cho hai anh lên chào Bác Hồ. Anh Duẩn nhủ: “Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác”. Và, Hồ Chủ tịch đã căn dặn các anh: “Miền Nam ở xa, Xứ ủy Nam Bộ phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để Mỹ-Diệm tiêu diệt cách mạng miền Nam.”
Các anh đã trao đổi hai ngày với anh Lê Duẩn trước khi trở về Nam. Anh Lê Duẩn bảo: “Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!”. Sau đó, miền Nam bùng lên “Đồng khởi”, không khí cách mạng của cả miền Nam hừng hực như cánh đồng cỏ khô, chỉ chờ một mồi lửa là bùng cháy….
Đất nước ta còn đầy mình thương tích sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp lại phải lâm vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ số 1, trong khi nền kinh tế của ta vừa nghèo nàn vừa lạc hậu vào bậc nhất nhì thế giới.
Chúng ta ý thức được rằng, nếu không có sự chi viện và giúp đỡ của Liên-xô, Trung Quốc - Hai người Anh Cả của Việt Nam, rồi của các nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới thì chúng ta không đủ sức đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Nhưng lúc đầu, Liên-xô không đồng ý cho ta phát động đấu tranh võ trang, yêu cầu ta quán triệt và thực hiện “Thi đua hòa bình”. Còn Trung Quốc thì bảo ta “Kiên trì mai phục”; tới lần thứ ba ta đề nghị thì mới đồng ý để ta tổ chức vũ trang ở quy mô cấp tiểu đội là phổ biến, cấp đại đội chỉ là cá biệt. Về vũ khí, Trung Quốc chỉ cho ta loại súng trường K44 bắn phát  một, nói là “để tự vệ, chống càn!”.
Cả hai người Anh lớn không đồng tình việc ta đấu tranh bằng bạo lực cách mạng, trong khi hai ông Anh lại đang mâu thuẫn gay gắt với nhau. Ta làm sao đây? Khó lắm thay!…
Được sự tin cậy và dặn dò của Hồ Chủ tịch, anh Lê Duẩn đã nhiều lần đi Mat-xcơ-va và Bắc Kinh. Anh đưa ra những thắng lợi đầu tiên, những chuyển biến tích cực của chiến trường Nam Bộ để thuyết phục. Và, bằng lối tư duy và ứng xử sắc sảo, tài ngoại giao khôn khéo của mình, dần dần anh đã thật sự thuyết phục được họ: Liên-xô đồng ý viện trợ cho ta toàn bộ vũ khí, khí tài và phương tiện để ta chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
Trung Quốc đồng ý viện trợ vũ khí, phương tiện, tiền bạc và vật chất để ta chiến đấu với đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
“Chớp thời cơ càng nhanh càng tốt”
Trước kia tôi ở cương vị thấp nên không có điều kiện tiếp xúc nhiều với anh Lê Duẩn.
Đến tháng 11/1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng cách mạng của Quân khu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, làm phá sản chiến lược bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn gọi ra Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng: “Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực hiện ý đồ “Quốc gia dân tộc”; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và mâu thuẫn nhau nên chưa thực hiện được.
Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ, từ quân chủ lực tới quân địa phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự… đông, đồ sộ nhưng không mạnh”. Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: “Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt.
Nếu một khi nó đã hết hoang mang, ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về “Việt Nam hóa” của nó mà làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành nội chiến; mà đã như thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được”.
Nghiên cứu tình hình thì thấy rất rõ là  từ giữa năm 1973 đến đầu 1974, địch bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa” ở một số vùng ven đô. Bởi vậy, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ là sức mạnh. Đây là một tư duy sáng suốt.
Tổng Bí thư Lê Duẩn (đứng thứ 6 từ phải sang) và đồng chí Lê Đức Anh (đứng ngoài cùng bên phải) cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam – thống nhất đất nước (Đà Lạt 1975).
Ngay sau đó, đầu năm 1974, anh Lê Duẩn đã trực tiếp chỉ đạo Bộ tổng Tham mưu chuẩn bị kế hoạch quân sự tiến công giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976; đồng thời chỉ đạo Trung ương Cục miền Nam khẩn trương tổ chức phong trào quần chúng và các lực lượng tại chỗ (lực lượng chính trị và lực vũ trang địa phương, lực lượng quân báo, biệt động, lực lượng tình báo…) trong lòng các đô thị mà quân địch đang chiếm đóng.
Khi đó, anh đã chỉ rõ: “Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ… Chuẩn bị và tổ chức tốt lực lượng tại chỗ thì đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến lũy gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây và tiêu diệt quân thù.
Mà chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ… nơi nào cũng làm được như thế cả…”
Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra đúng như ý kiến tiên liệu của anh.
Chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam
Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chủ tịch, anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thác ghềnh cập bến vinh quang. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, anh Lê Duẩn đã có công rất lớn.
Phẩm chất và di sản của anh để lại, chúng ta còn phải nghiên cứu học hỏi để dần dần hiểu được hết anh.
Chúng ta hãy hình dung lại, sau ngày miền Nam giải phóng, nền kinh tế của ta nghèo nàn và lạc hậu như thế nào. Sau 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới.
Khói súng chiến tranh chưa tan hết, hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh chưa khắc phục được bao nhiêu. Chúng ta bị Mỹ và các nước thân Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đang mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn đến sụp đổ. Theo đó, khối SEV, nguồn viện trợ duy nhất của ta đã cạn dần rồi mất hẳn. Nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, lạm phát tới 774%. Trong khi Liên-xô rơi vào khủng hoảng toàn diện, lạm phát còn nặng hơn ta nhiều.
Trong hoàn cảnh nghiệt ngã như thế, tôi cho rằng, Đảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chèo chống như vậy, giữ cho không bị sụp đổ, tuy có gian nan vất vả nhưng vẫn trụ vững, dần ổn định và tìm cách đi lên là một kỳ tích đáng tự hào.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), Báo cáo chính trị do anh trình bày đã nghiêm khắc phê bình hai loại nhận thức: Một là “chủ quan nóng vội”, đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất… đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Hai là “bảo thủ, trì trệ”, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, nên đã kìm hãm sản xuất.
Đại hội đã quyết định “Đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ… Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa coi trọng giá trị và quy luật giá trị”. Như vậy, ngay từ Đại hội V, Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Hay nói một cách khác là “tư duy về đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước” đã xuất hiện từ trước thềm Đại hội V.
Trao đổi với mọi người, anh Lê Duẩn vẫn thường nói một mệnh đề mà anh hằng tâm đắc: “Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý”.
Lịch sử về đổi mới nông nghiệp đã minh chứng: Bắt đầu từ tư duy “Khoán hộ” của anh Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; 15 năm sau thì xuất hiện “Khoán chui”, “Khoán sản” của Bí thư Hải Phòng Đoàn Duy Thành đã làm cơ sở cho “Chỉ thị 100” của Ban Bí thư tháng 1-1981 và Nghị quyết “Khoán 10” (tháng 4/1988) của Bộ Chính trị khóa VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất bung ra, lương thực bung ra.
Nếu như trước đó, khi anh Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn, nhiều người hoài nghi, thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản về lương thực, bảo đảm an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu - một sự kiện “như mơ giữa ban ngày”.
Bởi vậy, tôi cho rằng, chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng. Nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI thì mới có đổi mới, mà ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần ra, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt (nhận thức, tư tưởng, kinh tế-xã hội…) đã chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
“Nhân dân sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!”
Trước khi Bác Hồ qua đời, Bộ Chính trị đã có quyết định nhờ Liên Xô giữ thi thể của Bác cho con cháu hôm nay và mai sau được mãi mãi trông thấy Bác. Liên Xô đồng ý nhưng yêu cầu đưa thi hài của Bác sang Mat-xcơ-va… Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp Bộ Chính trị, anh Lê Duẩn đến nhà khách của Chính phủ, nơi nghỉ của đồng chí Côxưgin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô sang dự Lễ tang của Bác.
Anh Duẩn nói: “Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc Việt Nam là thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào miền Nam, họ hy sinh chiến đấu để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho toại nguyện. Bác cũng rất muốn vào Nam gặp đồng bào Miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép. Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào Miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan của Bác sau ngày chiến thắng.
Chúng tôi biết, ngoài Liên Xô ra, không nước nào có kỹ thuật gìn giữ thi thể. Nếu Liên Xô nói phải đưa thi thể Bác sang Liên Xô mới giữ được thì chúng tôi đành phải chôn Bác, bởi vì nếu chúng tôi đưa Bác sang thì nhân dân chúng tôi sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!- Và khi quyết định chôn Bác, chúng tôi sẽ nói với đồng bào chúng tôi: Chỉ có Liên Xô mới có kỹ thuật giữ thi thể của Bác, nhưng vì Liên Xô không chịu làm, nên Bộ Chính trị đau lòng gạt nước mắt để chôn Bác”.
Nghe anh Duẩn nói xong, Côxưgin liền nói: “Thôi thôi, tôi sẽ gọi chuyên gia của chúng tôi đến ngay và ra lệnh cho họ phải giữ thi hài Bác Hồ ngay tại Việt Nam. Nếu thiếu phương tiện gì, tôi sẽ điện về Mat-xcơ-va đưa sang ngay bằng chuyên cơ”.
Sau đó, thi hài của Bác đã được chuyên gia Liên Xô giữ lại ngay tại Việt Nam; và vì thế ngày nay nhân dân ta mới có cơ hội hàng ngày vào Lăng viếng Bác.

Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/9/1969).


Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã rất tin tưởng, sáng suốt khi giao cho anh trọng trách: Trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam kháng chiến chống thực dân Pháp; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong suốt chiến tranh chống Mỹ và Tổng Bí thư của Đảng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bằng tư duy sáng tạo và phẩm chất lớn lao, anh đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả đó; anh đã thật sự xứng đáng với sự ủy thác to lớn đó. Tự giác tôi luyện mình trong đấu tranh cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam.
Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về anh, một người anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn!.
Tháng 7 năm 2016
Đại tướng Lê Đức Anh, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.
Đại tá Khuất Biên Hòa (chắp bút)
Nguồn: nghiencuuquocte.org

[1] Hội nghị Trung ương (Khóa II) lần thứ 15 phải họp thành 2 đợt trong 7 tháng. Đợt 1 từ ngày 12 đến 22-1-1959; Đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959. Văn bản Cục Lưu trữ Ban Chấp hành Trung ương số 83-TB/TW ngày 24-7-1997: “Thông báo về các kết luận Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII”: “Nghị quyết 15 của Trung ương Khóa II là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị Khóa II, xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên của Hồ Chủ tịch từ tháng 7 năm 1954 khi hòa bình vừa mới lập lại trên một nửa đất nước, có sự chỉ đạo công phu của đồng chí Lê Duẩn, Quyền Tổng Bí thư lúc bấy giờ, cùng một số đồng chí trong Bộ Chính trị và trong Trung ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí ở miền Nam nước ta lúc đó”.

Tuesday, October 30, 2018

ĐỒNG CHÍ B NÓI VỀ ÂM MƯU CHỐNG VIỆT NAM CỦA TẬP ĐOÀN PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC


Biên dịch: Bùi Xuân Bách.
Lời giới thiệu: Tài liệu dưới đây được dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn tre - Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain - China, Vietnam, and the World beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14 của cuốn sách có tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”. Phần này gồm bài giới thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ Stein Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E. Goscha (20 trang, 467-486). Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên cứu về thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện đang  là Giám đốc Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy và cũng là tác giả cuốnViệt Nam 1946: Chiến tranh đã bắt đầu ra sao, mà anh Vũ Tường đã giới thiệu trong bài điểm sách đăng trên talawas blog.
Christopher E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American University và Trường Quốc tế ở Paris. Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới Việt Nam với Hoa Nam thời đầu chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận án về đề tài Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne.
Bài giới thiệu của Stein Tønnesson có khá nhiều nhận định sắc sảo và chính xác. Rất tiếc là không đủ thời gian để dịch ra giới thiệu với các bạn, nhưng các bạn có thể tham khảo bản tiếng Anh tại ĐÂY (trang 273-288).
Lẽ ra tài liệu từ tiếng Việt, đã được dịch sang tiếng Anh, thế thì còn dịch lại ra tiếng Việt làm gì. Vấn đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson đã nhận xét: “Cho đến giờ, rất ít tài liệu thuộc loại này được phía Việt Nam cho phép các học giả tiếp cận.” Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu được bạch hóa, ta dịch ra để cùng đọc, tuy không thể chính xác bằng bản gốc, nhưng cũng có thể cung cấp cho ta một số thông tin nhất định. Cũng có bạn đã viết rằng: “Vì bạn dịch tác phẩm từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, bạn không bao giờ dịch ngược một tác phẩm trở về ngôn ngữ nguồn. Không ai làm việc vớ vẩn ấy.” Nhìn chung thì đúng, tưởng như tiên đề, nhưng thực ra cũng có những lệ ngoại như trong trường hợp này. Việc “tam sao” này ắt là “thất bổn”, chẳng hạn như bản tiếng Anh dùng chữ “we” thì trong bản gốc có thể là “chúng ta”, “chúng tôi” mà hai từ này nội hàm cũng đã khác nhau (không hay có bao gồm người đối thoại hoặc người nghe), lại cũng có thể là phe ta, quân ta, dân ta v.v… nên chỉ có thể dựa vào ngôn cảnh mà phỏng đoán. Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra: “Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi tự mình chấp bút và tài liệu mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc dịch cực kỳ khó khăn). Rất có thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký ghi, hoặc những đoạn chi tiết do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện này ghi lại.”
Christopher E. Goscha đã phát hiện tài liệu này trong Thư viện Quân đội ở Hà Nội, chép tay lại và dịch ra tiếng Anh. Cũng theo Stein Tønnesson: “Văn bản không đề ngày tháng, và tên tác giả chỉ cho biết là “đồng chí B”. Dù sao, nội dung tài liệu cho ta thấy, nó được viết năm 1979, có lẽ vào quãng thời gian giữa cuộc tấn công của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam tháng 2-1979 và thời điểm phát hành cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam về mối quan hệ Việt - Trung ngày mồng 4 tháng 10 cùng năm. Dường như văn bản được soạn chỉ ít lâu sau quyết định ngày 15 tháng 3-1979 của Đặng Tiểu Bình ngừng cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam và rút quân về nước, nhưng trước khi Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc tháng 7-1979.”
Nếu tên tác giả chỉ ghi là “đồng chí B” thì sao lại dám khẳng định là Lê Duẩn? Bài nói chuyện của “đồng chí B” có cho ta biết rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ông ta được gọi là anh Ba, một bí danh mà mọi người đều biết là của Lê Duẩn. Tài liệu cũng nói nhiều đến những cuộc họp cấp cao với phía Trung Quốc trong đó có cả Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, khi đó nhân vật B này thường xưng tôi và đại diện cho phía Việt Nam một cách đầy quyền uy như thế, hẳn chỉ có rất ít người.
Một nhận xét khác của Stein Tønnesson là “những điều Lê Duẩn nói ra (trong năm 1979) rõ ràng mang sắc thái tức giận”, nhưng về thái độ của Lê Duẩn thì “một nét ấn tượng của tài liệu này là sự thẳng thắn, bộc trực và cách tác giả đưa vấn đề ra như là một cá nhân.” Ta đều biết vai trò và vị trí của ông trong Đảng cũng như trong các sự kiện từ khi được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam rồi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Stein Tønnesson cũng cho rằng khi Lê Duẩn xưng tôi với Hồ Chí Minh thì đó là thái độ có phần xấc xược, nhưng người dịch không nghĩ như vậy. Nếu bạn đã đi nhiều vùng trên đất nước ta, hoặc được tiếp xúc với nhiều người từ những địa phương khác nhau tới, bạn sẽ thấy đó chỉ là một tập quán ngữ dụng của một số nơi chứ không phải là hỗn hào hay xấc xược. Hoặc cũng có đoạn, khi nói chuyện với Mao, Lê Duẩn cũng dám “ăn miếng trả miếng”, nhưng người dịch hoài nghi chuyện này, chúng ta cần phối kiểm với những tài liệu khác nữa.
So với cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, công bố ngày mồng 4 tháng 10-1979, tài liệu này cũng không có nhiều điểm khác biệt, trừ một số tình tiết về cách suy nghĩ và ứng phó của phía Việt Nam. Dẫu sao, theo thiển ý của tôi, thì đây cũng là một tài liệu quý. Nó cho ta thấy việc ra đời của cuốn Sách trắng đã được chỉ đạo từ cấp cao nhất.
Vì thời gian có hạn, lại dịch ngược lại từ tiếng Anh ra Việt trong khi ngôn ngữ nguồn đã là tiếng Việt, chắc chắn bản dịch còn nhiều thiếu sót. Người dịch cũng chỉ mong muốn một chữ “tín”, mà chưa dám nghĩ đến “đạt, nhã”. Mong các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ.
Xin lưu ý:
- Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha.
- Chúng tôi vẫn giữ nguyên những con số của ghi chú cho phù hợp với trong sách.
***
Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc
Nói chung, sau khi ta đã thắng Mỹ thì không còn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn như vậy. Tôi không rõ bọn phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào bọn chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta như chúng vừa làm gần đây [vào đầu năm 1979]. Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh [Bắc Trung bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ vững chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất không gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng [Bắc bộ] vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp. Hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam thì sẽ chẳng có ai dám đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả thế giới còn lại sợ Mỹ…(25) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên, nhưng đó chỉ vì mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi chiến tranh chấm dứt [ở Triều Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông ta [có lẽ ám chỉ Chu Ân Lai như những đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng, nếu như Việt Nam tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ phải tự lo liệu lấy. Ông ta sẽ không giúp nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải ngừng đấu tranh.
Khi ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính Chu Ân Lai là người đã chia cắt nước ta ra làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Bắc và Nam như vậy, cũng chính ông ấy lại ép chúng ta không được đụng chạm gì đến miền Nam. Họ cấm ta vùng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm chúng ta sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông đã nói với Đảng ta rằng, chúng ta cần ép các đồng chí Lào chuyển giao ngay hai tỉnh đã giải phóng cho chính phủ Viên Chăn (26). Nếu không Mỹ sẽ tiêu diệt họ, một tình huống hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung Quốc]. Việt Nam lại phải làm việc ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề này]. Mao đã bắt ta phải làm như vậy và chúng ta cũng đành phải làm như vậy (27).
Rồi sau khi hai tỉnh giải phóng của Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn, bọn phản động Lào ngay lập tức bắt Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các đồng chí Lào có hai tiểu đoàn lúc ấy đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây]. Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải chấp nhận cho các bạn Lào phát động chiến tranh du kích. Tôi mời phía Trung Quốc đến để thảo luận việc này với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu các anh tiếp tục gây sức ép với Lào như thế thì lực lượng của họ sẽ tan rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được phép tiến hành đánh du kích”.
Trương Văn Thiên (28), người trước kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và có bí danh là Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các đồng chí, điều các đồng chí nói là đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn Lào ấy được đánh du kích”.
Tôi hỏi Trương Văn Thiên ngay lập tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí đã cho phép Lào tiến hành chiến tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho các đồng chí phải sợ hãi đến nỗi các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?”
Ông ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!”
Đó là điều Trương Văn Thiên đã nói. Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam khi ấy, [và] có mặt lúc đó cũng nghe thấy những điều vừa nói.
Ông ta đã đánh điện về Trung Quốc [báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê Duẩn và Trương Văn Thiên]. Mao trả lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể làm như vậy được [phát động chiến tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam nhất định phải trường kỳ mai phục!” Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không có Trung Quốc là hậu phương vững chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo họ, có phải không? (29)
Dẫu sao thì chúng ta vẫn không nhất trí. Ta bí mật tiến hành phát triển lực lượng của ta. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh miền Nam, ta đã ra lệnh tổ chức lực lượng quần chúng để chống chế độ này và giành lại chính quyền [từ tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để ý đến họ [Trung Quốc]. Khi cuộc đồng khởi giành chính quyền đã bắt đầu, chúng tôi sang Trung Quốc gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nói với tôi: “Các đồng chí, bây giờ sai lầm của các anh thành việc đã rồi, các anh chỉ nên đánh ở mức độ trung đội trở xuống.” Đấy là một kiểu ràng buộc mà họ muốn áp đặt lên ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ chỉ đánh ở mức trung đội trở xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta đã chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường lối mới. Ông ta nói rằng trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội [Trung Quốc] vào giúp ta làm đường. Mục đích chính của ông ấy là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này có thể đánh ta và từ đó bành trướng xuống Đông Nam Á. Không còn lý do nào khác. Chúng ta biết vậy nhưng phải chấp nhận [việc đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam]. Chuyện này thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu là họ đưa người không thôi, nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn dược. Tôi lại đành phải đồng ý.
Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của họ xấu xa tới chừng nào.
Sau khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng tiến công Mậu Thân 1968, buộc chúng phải xuống thang. Để đánh bại đế quốc Mỹ ta phải biết cách kéo địch xuống thang dần dần. Đó là chiến lược của ta. Chúng ta chiến đấu chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn hai trăm triệu người và họ từng thống trị thế giới. Nếu ta không thể bắt họ xuống thang dần từng bước, thì ta sẽ lúng túng và không thể tiêu diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho chúng tê liệt ý chí để buộc chúng đến bàn đàm phán và không cho phép chúng đưa thêm quân vào.
Khi đã đến lúc họ muốn đàm phán với chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói: “Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Mỹ được. Các anh phải kéo quân Mỹ vào miền Bắc mà đánh chúng”. Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó, khiến chúng ta hết sức bối rối. Đó hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những tình huống tương tự [với Trung Quốc] lại xảy ra.
Chúng ta đã quyết định rằng không thể làm theo cách đó được [về ý kiến của Hà Vĩ không nên đàm phán với Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã kéo Mỹ xuống thang để đánh bại chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên bố [với Mỹ]: “Nếu người không đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến người. Muốn mang bao nhiêu quân vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”. Trung Quốc, theo ý của họ, đã làm như vậy và ép ta làm theo.
Họ đã tích cực đổi chác với Mỹ và dùng ta làm con bài để mặc cả như thế đấy. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung Quốc để xúc tiến việc rút quân ở miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận việc này.
Trước khi Nixon đến Trung Quốc, [mục tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu đến tối đa sự thất bại của họ, đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi: “Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp tôi, chủ yếu là để thảo luận vấn đề Việt Nam, do đó tôi nhất định phải đến gặp đồng chí để bàn bạc.”
Tôi trả lời: “Thưa đồng chí, đồng chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí muốn, nhưng tôi vẫn không hiểu. Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là người Việt Nam. Việt Nam là đất nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không phải là của các đồng chí. Đồng chí không có quyền phát biểu [về công việc của Việt Nam], và đồng chí không có quyền thảo luận [những chuyện đó với Mỹ] (30). Hôm nay, thưa đồng chí, tôi nói riêng với đồng chí một điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói với Bộ Chính trị của chúng tôi, rằng các đồng chí đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng và vì vậy tôi cần phải nói:
Năm 1954, khi Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu Nghĩa. Bác Hồ đánh điện cho tôi, nói rằng tôi cần phải đi Nam để tổ chức lại [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về việc này] (31). Tôi đi xe thổ mộ xuôi Nam. Dọc đường đồng bào đổ ra chào đón tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến thắng. Thật đau lòng xiết bao! Nhìn đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và tàn sát đồng bào tôi một cách dã man.
Vào tới nơi, tôi lập tức đánh điện cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và không tập kết ra Bắc, để có thể tiếp tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu hơn. [Tôi nói với Chu Ân Lai]: “Thưa đồng chí, đồng chí đã gây ra những khó khăn cho chúng tôi như vậy đấy [muốn nói đến vai trò của ông ta trong việc chia cắt Việt Nam tại hội nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí có biết thế không?”
Chu Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong chuyện này [ám chỉ việc chia cắt Việt Nam tại Giơ ne vơ] (32). Sau khi Nixon đã đi thăm Trung Quốc, ông ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến đấu trong Nam.
Tuy nhiên tôi cũng nói ngay với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí. Chẳng bao lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai bên [Mỹ và Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm đánh ta mạnh hơn. Ông ấy [Châu] đã không phản đối quan điểm này là không có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e ngại một âm mưu bí mật giữa Mỹ và Trung Quốc]: “Không có chuyện đó đâu”. Dẫu sao họ cũng đã thảo luận đánh ta mạnh hơn như thế nào, kể cả ném bom bằng B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Vấn đề rõ ràng là như vậy.
Nếu Liên Xô và Trung Quốc không bất đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh chúng ta một cách tàn bạo như chúng đã làm. Chừng nào hai nước [Trung Quốc và Liên Xô] còn xung đột thì người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự phản đối của khối Xã hội chủ nghĩa thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có thể đoàn kết với cả hai nước Trung Quốc và Liên Xô, nhưng để làm việc này là hết sức khó khăn vì lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc rất nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng năm viện trợ cho ta nửa triệu tấn lương thực, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô la nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự như vậy. Nếu chúng ta không làm được điều đó [giữ gìn sự thống nhất và đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có thể hết sức nguy hiểm. Hàng năm tôi phải sang Trung Quốc hai lần để trình bày với họ [ban lãnh đạo Trung Quốc] về các diễn biến ở trong Nam. Còn với Liên Xô, tôi không cần phải nói gì cả [về tình hình miền Nam]. Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc với phía Trung Quốc, tôi phải nói rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh Mỹ. Tôi đã đi (sang đấy) một mình. Tôi phải tham dự vào những chuyện đó. Tôi phải sang Trung Quốc và bàn bạc với họ nhiều lần như vậy với mục đích chính là thắt chặt quan hệ song phương [Trung Quốc và Việt Nam]. Chính vào lúc đó Trung Quốc ép chúng ta phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm ta không được đi cùng với Liên Xô nữa (33).
Họ làm rất căng thẳng chuyện này. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh (34), đến nói với tôi: “Đồng chí, chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân dân tệ) một năm. Các anh không được nhận gì từ Liên Xô nữa.”
Tôi không chấp nhận như vậy. Tôi nói: “Không, chúng tôi nhất định phải đoàn kết và thống nhất với toàn phe Xã hội chủ nghĩa.” (35)
Năm 1963, khi Nikita Khơrútxốp có sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương lĩnh 25 điểm và mời Đảng ta đến và góp ý kiến. Anh Trường Chinh và tôi cùng đi với một số anh em khác. Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng nghe ta chừng mười điểm gì đó, nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã hội chủ nghĩa” (37) thì họ không nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về văn bản của chính tôi. Tôi xin ý kiến các đồng chí nhưng tôi không chấp nhận điểm này của các đồng chí.”
Trước khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” (38) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!”
Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc này. Mao hỏi tôi:
- Lào có bao nhiêu cây số vuông?
Tôi trả lời:
- Khoảng 200 nghìn [cây số vuông].
- Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi]
- [Tôi đáp:] Gần ba triệu.
- [Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống đấy!
- [Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông?
- [Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn.
- Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi]
- Gần 40 triệu! [Tôi đáp]
- Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông mà có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ lấy thêm một ít người của chúng tôi đi xuống đấy nữa [Thái Lan]!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: “Các đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải không?” Tôi đáp: “Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa, đúng không?” Tôi trả lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông. (39) Ông có biết thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: “Đúng! Đúng!” Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp.
Trong những năm trước [về các vấn đề có thể nảy sinh từ mối đe dọa của Trung Quốc trong những thời kỳ đó], chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực chứ không phải chúng ta không chuẩn bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị thì tình hình vừa qua đã có thể rất nguy. Đó không phải là chuyện đơn giản. Mười năm trước tôi đã có mời anh em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có mâu thuẫn với nhau. Còn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên quân đội anh em chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này rất khó hiểu. Đúng là không dễ dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói cách khác được. Và tôi cũng không cho phép ai căn vặn mình(40).
Khi tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một hội nghị 80 đảng [Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp đỡ Việt Nam mà còn dự định lên án Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao? Tại sao các anh lại làm như vậy?” Tôi đáp: “Tôi hoàn toàn không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm như vậy. Tuy nhiên, muốn là người theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đi dự hội nghị này thì Trung Quốc sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho chúng tôi. Xin các đồng chí hiểu cho.”
Ở Trung Quốc có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai đồng ý xây dựng cùng Liên Xô một mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến Liên Xô dự lễ Quốc khánh, tôi có được đọc một bức điện của Trung Quốc gửi Liên Xô nói rằng “nếu Liên Xô bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai sát cánh cùng Liên bang Xô viết.”(41) Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô - Trung được ký kết trước đây [tháng 2-1950]. Ngồi cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi ông ấy: “Trong bức điện mới đây gửi Liên Xô, các đồng chí đã đồng ý cùng với Liên Xô thành lập một mặt trận, nhưng tại sao các đồng chí lại không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có thể. Tôi đồng tình với quan điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [về Việt Nam]. Bành Chân (42) cũng đang ngồi đó, nói thêm: “Ý kiến này cực kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra thảo luận ở Thượng Hải, Mao nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến này. Các đồng chí đã thấy vấn đề phức tạp ra sao.
Mặc dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý thành lập một mặt trận và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông mà tôi hiểu [nhiều chuyện đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có thể rất nguy hiểm. Có lần ông ấy nói với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình để sống sót ở đây, dùng Lý Cường (43) để tích lũy và cung cấp viện trợ cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám chỉ Châu đã có thể dùng Lý Cường vào việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu rằng nếu không có Chu Ân Lai thì không thể có được sự viện trợ như vậy. Tôi thật biết ơn ông ta.
Tuy nhiên cũng không đúng, nếu nói rằng những người khác trong ban lãnh đạo Trung Quốc có cùng quan điểm với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều phương diện. Nhưng có thể nói rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc đại Hán và người muốn chiếm cả vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả mọi chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay Mao.
Cũng có thể nói như vậy về các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Chúng ta không biết trong tương lai mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao [sự thực là] họ đã tấn công ta. Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai việc mà giờ đây lại lật ngược hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta. Kết quả là ông ta lập tức bị những người khác coi là phần tử xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng (44), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã gặp đoàn đại biểu Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn đề lãnh thổ, gồm cả thảo luận về một số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước chúng ta nằm cạnh nhau. Có một số khu vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa được phân định rõ ràng. Cả hai phía chúng ta cần phải thành lập một ủy ban để xem xét vấn đề này. Thưa các đồng chí, xin hãy nhất trí với tôi [về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã đồng ý, nhưng vì vậy mà sau đó ông ta lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp mũ xét lại tức thời.
Nhưng bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra mình không phải là xét lại nên ông ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta đã bật đèn xanh cho họ tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người. Một số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh nhau với ai nữa mà lại vẫn duy trì một đội quân [thường trực] lớn như vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng chí sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như vậy chính là vì Trung Quốc [mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu như không có [sự đe dọa đó] thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không còn cần thiết nữa. Đã bị tấn công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rõ rằng] sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một đội quân lớn.
(B) [Ý nghĩa của chữ B này trong bản gốc không được rõ] - Từ cuối Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đều cho rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen đầm quốc tế. Chúng có thể xâm chiếm và đe dọa các nước khác trên thế giới. Mọi người, kể cả các cường quốc, đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ mà thôi.
Tôi hiểu được điều này nhờ cuộc đời hoạt động của mình đã dạy tôi như vậy. Người đầu tiên sợ [Mỹ] chính là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, cả Việt Nam và Lào, rằng: “Các anh phải lập tức chuyển giao ngay hai tỉnh giải phóng của Lào cho chính quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức nguy hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam.” Ông ta [Mao] nói: “Các anh không được làm như vậy. Miền Nam Việt Nam cần phải trường kỳ mai phục, có thể một đời người, năm đến mười đời, thậm chí hai mươi đời nữa. Các anh không thể đánh Mỹ. Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.” Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như vậy…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam sẽ không được giải phóng. Một nước chưa được giải phóng thì vẫn cứ là một nước phụ thuộc. Không có nước nào được độc lập nếu chỉ có một nửa nước được tự do. Đó là tình hình cho đến năm 1975, khi đất nước ta cuối cùng đã giành được hoàn toàn độc lập. Có độc lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là thứ tự do cho cả nước Việt Nam…
Ăng ghen đã từng nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung Quốc và cả ta nữa cũng nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau rất nhiều về nội dung [của chiến tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu chỉ vì anh có hàng triệu người mà anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc cũng nói về chiến tranh nhân dân nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là chủ yếu, và chiến tranh chia làm ba giai đoạn, lấy nông thôn bao vây thành thị, trong khi [chủ lực] vẫn lẩn trốn trong vùng rừng núi… Trung Quốc đã thiên về phòng ngự và rất yếu [trong Đại chiến Thế giới thứ hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống lại quân đội Nhật chỉ có khoảng 300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại Nhật. (45)
Tôi phải nhắc lại như vậy vì trước kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta nên một số anh em [ta] không hiểu. Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài giỏi. Nhưng họ cũng không tài giỏi lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm theo [sự cố vấn của Trung Quốc]. (46)
Năm 1952 tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên tôi ra nước ngoài. (47) Tôi đã đánh dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy rất nhiều chuyện lạ. Những vùng [đã từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân cư là 50 triệu người, nhưng không có thậm chí một người du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không?
- Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên.
- Chú thấy những gì?
- Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không.
Tôi hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng dũng cảm là đặc tính cố hữu trong từng con người Việt Nam, và do vậy chúng ta chưa từng có chiến lược thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là một chiến sĩ.
Gần đây, họ [Trung Quốc] đem vài trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên phần lớn mặt trận, ta mới sử dụng dân quân du kích và bộ đội địa phương để đánh trả. Chúng ta không thiên về phòng ngự, và do vậy họ đã thất bại. Họ không thể tiêu diệt gọn một trung đội nào của Việt Nam, còn ta diệt gọn vài trung đoàn và vài chục tiểu đoàn của họ. Đạt được điều đó vì ta có chiến lược nghiêng về tấn công.
Đế quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức mạnh mà vẫn thua. Nhưng ở đây có một yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như vậy.
Việt Nam chống Mỹ và đánh chúng quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết rằng Mỹ là một nước rất lớn, có khả năng huy động một đội quân mười triệu người và dùng tất cả những vũ khí tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu một thời gian dài để kéo chúng xuống thang. Chúng ta là người có thể làm được như vậy; Trung Quốc thì không. Khi quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã ra lệnh đưa bộ đội vào ứng chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó tôi có sang Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc chiến đấu ở Quảng Trị] có lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời người chỉ có một [cơ hội], không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng chí đã làm”.
… Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng thẳng thắn hơn. Ông nói với tôi: “Nếu tôi được biết trước cách đánh mà các đồng chí đã sử dụng thì có lẽ chúng tôi không cần đến cuộc Trường chinh.” Vạn lý Trường chinh để làm gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh họ có một đội quân 300 nghìn người; và khi kết thúc họ chỉ còn lại có 30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu hao. Đó quả thật là ngu ngốc nếu làm theo cách ấy… [Tôi] nói như vậy để các đồng chí hiểu, chúng ta đã tiến xa hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta lại phải chiến đấu chống Trung Quốc, chúng ta nhất định thắng lợi… Dẫu sao, một sự thực là nếu như một nước khác [không phải Việt Nam] phải đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc họ có thể thắng như vậy [giống Việt Nam] được.
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ sẽ dám đánh ta. Nếu như hai nước đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa chắc rằng Mỹ sẽ dám đánh ta theo cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn bước ngay từ đầu. Họ có thể bỏ cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia vào chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía Mỹ lại được [Trung Quốc] thông báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt Nam mà không sợ gì cả. Đừng sợ [Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu người không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng đến người. Các anh có thể đưa bao nhiêu quân vào miền Nam Việt Nam cũng được. Điều đó tùy theo các anh.” (48)
… Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với một quốc gia lớn, một nước có những ý đồ bành trướng, mà nếu được thực hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng Việt Nam. Như vậy, ta phải gánh vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước. Dẫu sao, chúng ta không bao giờ thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình. Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này Việt Nam quyết tâm không cho chúng bành trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc lập của chính mình và đồng thời cũng là bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam quyết không để cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành trướng của họ. Cuộc chiến gần đây [với Trung Quốc] mới chỉ là một hiệp. Hiện nay họ vẫn đang ráo riết chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù sao đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng…
Tiến hành chiến tranh không phải là một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng một triệu quân để tiến hành chiến tranh chống nước khác kéo theo vô vàn khó khăn. Chỉ mới đây thôi, họ đem 500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta, mà họ không có đủ phương tiện vận tải để chuyên chở lương thực cho quân đội họ. Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới [Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có 600 ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân, thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.
Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa thì sẽ càng khó khăn. Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè lũ Hitler đã tấn công ác liệt như thế nào, mà khi tiến đến Leningrad chúng cũng không thể nào vào nổi. (Phải đối mặt) với những (làng mạc,) thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tấn công hiệu quả chống lại từng người cư dân. Thậm chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi làng xóm của chúng ta [trên biên giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương của ta là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được.
Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến. Ngưới ta cũng cần phải có một đội quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau khi cuộc chiến vừa qua chấm dứt, chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới, ta cần đưa thêm vài triệu người lên (các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu giặc đến từ phương Bắc, hậu phương trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực tiếp để bảo vệ Thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Ta sẽ đánh bằng nhiều cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn giáng cho địch một đòn quyết liệt khiến chúng choáng váng, trong khi tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta. Để làm được như vậy, mỗi người lính phải là một người lính thực sự, mỗi tiểu đội phải là một tiểu đội thực sự.
Vừa trải qua một trận chiến, chúng ta không được chủ quan. Chủ quan khinh địch là không đúng, nhưng thiếu tự tin thì cũng sai. Ta không chủ quan khinh địch nhưng ta cũng đồng thời tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của chúng ta. Ta cần phải có cả hai yếu tố đó.
Trung Quốc hiện đang có âm mưu tấn công ta nhằm bành trướng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay người ta không thể làm gì mà che đậy giấu giếm được. Trung Quốc vừa mới gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả thế giới đã đồng thanh hô lớn: “Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay không còn giống như thời xưa nữa. Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ [Trung Quốc]. Ngày nay cả thế giới sát cánh chặt chẽ bên nhau. Nhân loại hoàn toàn chưa bước vào giai đoạn Xã hội chủ nghĩa; thay vì thế bây giờ lại là thời mà mọi người đều mong muốn độc lập và tự do. [Thậm chí] trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở đó cũng mong muốn độc lập tự do. Cả loài người hiện nay là như vậy. Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy mọi người còn chưa biết rõ về những khái niệm này. Lời bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” là tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam là quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
Khi bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ Chính trị đã cùng thảo luận chuyện này để cân nhắc xem ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã biểu thị quyết tâm của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất định phải không sợ Mỹ. Tất cả đã đồng lòng. Trong khi tất cả đều nhất trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần không sợ Trung Quốc. Mọi người đều tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba cái (nước lớn) đó, ta có thể đánh Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như thế nào ở Bộ Chính trị trong thời gian đó.
Mặc dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo luận như vậy và mọi người đều nhất trí đồng lòng, sau đó lại có người đã nói lại với một đồng chí những điều tôi nói. Người đồng chí đó lại chất vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại sao anh Ba (49) lại nói rằng nếu chúng ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh ấy lại đặt vấn đề như vậy? (50)
Lúc đó anh Nguyễn Chí Thanh, một người thường được cho rằng là có cảm tình với Trung Quốc, đứng dậy nói: “Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị và bác Hồ kính mến, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Cần phải nói như vậy [về việc cần phải không sợ Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã gây khó khăn cho chúng ta trong nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ không cho ta đánh…” (51)
Trong khi ta đang chiến đấu trong Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng tôi chỉ nên đánh từ mức trung đội trở xuống, và không được đánh ở mức độ lớn hơn. Ông ta [Đặng] nói: “Ở miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là đã phát động cuộc chiến, các anh chỉ được đánh từ cấp trung đội trở xuống, chứ không được đánh lớn hơn”. Đó là họ đã ép ta như thế nào.
Chúng ta không sợ ai cả. Ta không sợ bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta không sợ thậm chí các nước đàn anh. Ta cũng không sợ bạn bè ta. (52) Tất nhiên, chúng ta không sợ quân thù. Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những con người; chúng ta không phải sợ bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết rằng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh, bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt… Không thể nào khác được. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta là một nước nghèo.
Ta có một đội quân mạnh, nhưng việc đó không làm chúng ta yếu đi chút nào. Đối với ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta khó khăn hơn. Vì những lý do đó, để chống Trung Quốc chúng ta phải, trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn phải tự làm cho mình mạnh lên. Để đạt được điều đó, theo quan điểm của tôi, quân đội ta không thể là một đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp của nhà nước, mà còn phải là một đội quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ sẽ cầm chắc tay súng. Khi không có giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ là biểu tượng cao nhất và tốt nhất trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ. (53)
Hiện nay, quân đội ta đang gánh vác một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của đất nước, đồng thời bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc không thể thực hiện được thì đó chính là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm được. Việt Nam đã có năm chục triệu người. Việt Nam có Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng về phiá mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó.
… Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta sẽ thua Trung Quốc không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta phải duy trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không muốn sự hằn thù dân tộc. Tôi nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ tôi mang lòng hận thù đối với Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã đánh ta. Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết rằng trên đời này người đã từng bảo vệ Trung Quốc lại chính là tôi! Đúng như vậy đó. Tại sao thế? Bởi vì trong hội nghị ở Bucharest tháng 6 năm 1960, sáu mươi đảng đã phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có mình tôi là người đã bênh vực Trung Quốc. (54) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa, chúng ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không mang những mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một số lãnh đạo [Trung Quốc] thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi. Chúng ta không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm nhặt như vậy.
Tóm lại, hãy giữ cho tình hình trong vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi là cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng làm như vậy. Tôi tin chắc rằng trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm chí có thể một trăm năm, chủ nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì ta sẽ không còn vấn đề gì nữa. Nhưng nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Bây giờ không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc rằng không có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường hợp vì các đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. (55) Nhưng đó không phải là trường hợp xảy ra với chúng ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (56) Chúng ta biết rằng họ sẽ đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta không bị bất ngờ [vì cuộc tấn công tháng giêng 1979 của Trung Quốc].
——————-
Ghi chú của Christopher E. Goscha: 24-56
24. Tài liệu này được dịch từ bản sao một số trích đoạn trong bản gốc. Nó được chép lại từ bản gốc lưu trữ trong Thư viện Quân đội, Hà Nội. Christopher E. Goscha, người dịch tài liệu này (ra tiếng Anh) đã được phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc đó. Văn bản là bài nói chuyện được cho là của “đồng chí B”. Nó có thể do chính đồng chí B viết, nhưng có nhiều khả năng hơn nó là bản đánh máy của một người nào đó dự buổi nói chuyện của “đồng chí B” (một cán bộ cao cấp hoặc một thư ký đánh máy). Trong văn bản, đồng chí B có đề cập rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị ông ta được gọi là anh Ba. Đó là bí danh mà chúng ta được biết là của Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976 là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Mặc dầu tài liệu không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng văn bản được viết trong năm 1979, sau cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Nó được củng cố thêm bằng một tài liệu khác mang tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm 1979 theo chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần tự sự phản bội của Trung Quốc và, không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn đã kể lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi chú này có cho thêm số trang trong bản tiếng Pháp của cùng văn kiện: Ministère des Affaires Étrangères, La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années. Dịch giả xin cám ơn Thomas Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong Thach, và hơn cả là một độc giả Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng góp cho nhiều ý kiến quý báu. Dịch giả xin chịu trách nhiệm về những sai sót trong bản dịch này.
25. Những dấu tỉnh lược (…) như vậy là nguyên văn trong bản gốc; những dấu tỉnh lược và nhận xét của dịch giả được đặt trong dấu ngoặc vuông: […].
26. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một khu vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh (Bắc Lào) Phong xa lỳ và Sầm Nưa. Không có một nhượng địa tương tự cho Khơ me It xa la, đồng minh của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
27. Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm quacho biết cuộc hội đàm cấp cao về Lào diễn ra vào tháng 8 - 1961 (La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années, trang 34).
28. Trương Văn Thiên là một trong những thành viên của Đoàn đại biểu Trung Quốc, người đã có mặt khi Lê Duẩn phát biểu những nhận xét này. Ông còn là Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy viên lâu năm trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội chủ nghĩa.
29. Sách Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua đã miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân. The Truth…, trang 40. (La vérité…, trang 31.)
30. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (La vérité…, trang 47.)
31. Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ giải thích việc tập kết cán bộ miền Nam ra Bắc. Lê Duẩn cũng cố tình lảng tránh không đề cập đến việc Trung Quốc đã giúp Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954.
32. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua trang 60, đoạn phía Việt Nam đã nói với Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”. (La vérité…, trang 47.)
33. Một trong những thư ký của Lê Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu hành ở Việt Nam cuốn Hồi ức của ông ta, trong đó có nhiều chi tiết lý thú về đường lối của Lê Duẩn đối với sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ trong (hàng ngũ cán bộ cao cấp của) Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề này trong những năm 1960. Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả hiện có một bản.
34. Khang Sinh (1903-1975), một trong những chuyên viên hàng đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về an ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ (NKVD) Liên Xô đào tạo trong những năm 1930, và trở thành cố vấn thân cận nhất cho Mao trong việc cắt nghĩa những chính sách của Liên Xô. Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính trị từ 1969; giữa 1973 và 1975 ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị.
35. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua trang 43, trong đó Việt Nam tuyên bố là Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi Việt Nam là ưu tiên số một trong vấn đề viện trợ cho nước ngoài để đổi lấy việc Việt Nam sẽ khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. (La vérité…, trang 33.)
36. Xem “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (La vérité…, trang 33) và cả Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
37. Tháng 11-1966, Liên Xô lên án Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản thế giới đã được thông qua tại các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
38. Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết Mao đã phát biểu như vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963. Trong sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (La vérité…, trang 9).
39. Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc “tôi có thể đánh bại cả các anh”.
40. Đối với dịch giả (Christopher E. Goscha), chỗ này không được rõ là Lê Duẩn muốn nói tới ai khi dùng chữ “quân sự”. (Ngược lại, đối với người dịch ra tiếng Việt thì rõ ràng trong ngôn cảnh này ông nói là tôi mời một số anh em bên quân đội…, một cách nói thân mật, thường dùng thời đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số tướng tá cao cấp).
41. Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ Trung-Xô. Đại sứ Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên Xô: “Nếu bọn đế quốc dám tấn công Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề ngần ngại, sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.” Trích từ Donald S. Zagoria, Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967), trang 139-140.
42. Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc từ 1951 đến 1969.
43. Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc vụ viện từ 1965 đến 1967. Giữa 1968 và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, và từ 1973 là Bộ trưởng Ngoại thương Trung Quốc.
44. Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977.
45. Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng 3-1945, thậm chí chỉ với số người ít hơn, Pháp đã có thể cai trị Việt Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn.
46. Về cố vấn Trung Quốc, xin xem Qiang Zhai, Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2000), và Christopher E. Goscha, “Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận án trình bày tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris, 2000, phần Trung Quốc.
47. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc, nhưng ông thường được cho là vẫn ở lại miền Nam thời kỳ này trong cương vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, mà sau này đổi thành Trung ương cục miền Nam vào đầu năm 1950. Dịch giả cũng hoài nghi việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm 1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn thì không.
48. Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này.
49. Điều này khẳng định Đồng chí B cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng Anh Ba là bí danh của Lê Duẩn, từ đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn. Từ những sự kiện được nói đến trong văn bản thì điều này là chắc chắn, và cuốn Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này.
50. Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan điểm cần tranh luận, xin tham khảo thêm cuốn Giọt nước trong biển cả (Hồi ức về một cuộc cách mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986).
51. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
52. Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu).
53. Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn cảnh chiến tranh du kích.
54. Điều này đã diễn ra vào tháng 6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn trong vấn đề này xin xem Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Sau đại hội Đảng Cộng sản Ru-ma-ni tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một cuộc họp tại chỗ các trưởng đoàn đại biểu những nước có mặt. Trong buổi họp đó Khơ rút xốp đã phê phán Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao, người mà ông ta cho là “giáo điều” vì những quan điểm của Mao về vấn đề chung sống hòa bình. Xem Adam B. Ulam, The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991 (New York: Macmillan, 1992), trang 211.
55. Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác.
56. Đây có lẽ muốn nói tới những nhà lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê Duẩn nói chuyện, và có thể là một chỉ hiệu rằng người đồng chí thân Trung Quốc đã nói ở trên không có mặt trong buổi nói chuyện này. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
Nguồn: Thư viện Quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris.

Dẫn lại: nghiencuuquocte.org

Bài đăng nổi bật

HỌC TẬP VÀ NOI GƯƠNG BÁC TÔN LÀ VIỆC LÀM THIẾT THỰC TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH BÁC HỒ

Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân An Giang đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ, chúng ta càng nhớ đến Bác Tôn...

Bài đăng phổ biến