Friday, November 9, 2018

THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP 1995 - TẬP 04

- Nguyên tác: Kim Dung.
- Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng.

TẬP 04

THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP 1995 - TẬP 03

- Nguyên tác: Kim Dung.
- Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng.

TẬP 03

THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP 1995 - TẬP 02

- Nguyên tác: Kim Dung.
- Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng.

TẬP 02


THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP 1995 - TẬP 01

- Nguyên tác: Kim Dung.
- Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng.

TẬP 01

“TỂ TƯỚNG LƯU GÙ” VIỆT NAM


TP - Tổng đốc đầu tiên của An Giang, Nho tướng Lê Đại Cang, có cuộc đời thăng trầm đậm chất “xi-nê” không thua gì cuộc đời Tể tướng Lưu gù.
Tự học, văn võ song toàn
Lê Đại Cang (hoặc Lê Đại Cương) có tên tự là Thống Thiện, hiệu là Kỳ Phong, sinh năm 1771, quê làng Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Nhà nghèo, thuở thiếu thời lại gặp phải chiến tranh loạn lạc, Lê Đại Cang không có điều kiện đi học, nên khổ học tại nhà.
Từ năm 1787, Lê Đại Cang lần lượt được học với thầy Nguyễn Tử Nghiễm và thầy Đặng Đức Siêu. Năm 1792, cha mẹ lần lượt qua đời, ông phải dừng việc học, bắt đầu nghề dạy học để kiếm sống, sau đó tiếp tục tự học cả văn và võ. Sau này, ở xứ Nẫu (tên gọi khác của Bình Định), Lê Đại Cang nổi tiếng là văn võ song toàn.
31 tuổi, Lê Đại Cang mới được tiến cử, giữ chức Tri huyện Tuy Viễn. Tổng thời gian làm quan của ông là 41 năm, kéo dài suốt cả ba triều vua Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Triều đình nhà Nguyễn lúc đó có 6 bộ, ông đều kinh qua và ở lĩnh vực nào cũng để lại dấu ấn cùng đóng góp quan trọng. Lê Đại Cang cũng để lại nhiều công tích tại Hà Nội, Sơn Tây, các tỉnh miền Tây Bắc, Quảng Nam, An Giang, Hà Tiên…, trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, văn hóa, ngoại giao…
Làm nghề gì cũng được, trừ làm… quan
Khi hưu quan, Lê Đại Cang chỉ mang theo về một thanh đại đao và chiếc đòn khênh võng. Con cháu ông được dặn rằng, ba đời sau, làm nghề gì cũng được, trừ làm… quan.
Chiếc đòn khiêng võng của Lê Đại Cang trong Bảo tàng Bình Định
Chiếc đòn khênh võng (hiện được trưng bày trong Bảo tàng Bình Định) liên quan hai biến cố đặc biệt trong giai đoạn ông làm quan ở phương Nam.
Năm Minh Mạng 14 (1833), “ông đang là Tổng đốc, do không giữ được thành nên bị cách chức cho làm lính đánh trận lập công. Gặp lúc giặc Xiêm kéo tới xâm lấn, vua nước Phiên (Chân Lạp) bỏ kinh đô, trốn chạy sang ta. Đại Cang kéo binh tiếp viện, đẩy lùi quân giặc. Nhờ chiến công này, ông được thăng chức Bố chánh sứ An Giang, rồi chức Trấn Tây Tham tán Đại thần, kính lý mọi việc trong nước Phiên” (Đại Nam thực lục).
Năm 1838, khi đang là Trấn Tây Tham tán Đại thần bảo hộ Cao Miên, Lê Đại Cang lại bị cách chức bởi bất tuân mệnh triều đình theo lối ngu trung; tiếp tục bị giáng làm lính khiêng võng. Lịch sử gần như lặp lại, sau đó Lê Đại Cang lại nhận việc tổ chức và huấn luyện lại đội binh đang rời rã kỷ luật, yếu kém kỹ năng chiến đấu, biến họ thành đội hùng binh đánh giặc Chân Lạp.
Lê Đại Cang là tổng đốc đầu tiên của An Giang, nhưng trong cuốn “Địa chí An Giang” in năm 2013, thông tin về ông chỉ có đúng một dòng: Tổng đốc đầu tiên của An Giang, có tội và bị giáng chức.
Người đầu tiên đề nghị tổ chức hội thảo nghiên cứu nhằm chiêu tuyết cho Lê Đại Cang là cháu đằng ngoại của ông - bác sĩ Việt kiều Lê Thanh Hà (hiện sống tại Mỹ). Gia đình ông Hà tuân thủ lời dặn của ông cố, không ai xuất sĩ làm quan, cả nhà có tới 32 người làm nghề y, dược.
Nhân vật của điện ảnh
Đạo diễn Đặng Nhật Minh chia sẻ: Lê Đại Cang có mọi yếu tố đáp ứng cho một nhân vật điện ảnh. Cuộc đời đầy thăng trầm, liên tục bị giáng chức rồi lại nhờ chiến công mà phục chức, nay lên xe, mai xuống ngựa. Cái quý nhất là trong hoàn cảnh nào ông cũng không bất mãn, vẫn bình tĩnh làm tròn bổn phận của mình. So sánh một chút, những người có tí quyền hành, chỉ về hưu thôi đã suy sụp, chứ đừng nói đến việc duy trì phong độ khi bị biếm chức. Về chuyện chưa khai thác được cuộc đời của Lê Đại Cang đưa lên màn ảnh, đạo diễn Đặng Nhật Minh coi là “món nợ của những người làm phim ở Việt Nam”.
Nhà thơ Thanh Thảo cho biết, ông có cảm xúc rất lớn với cuộc đời Lê Đại Cang và đang viết dở trường ca “Người khiêng võng” dự kiến ra mắt thời gian tới. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo so sánh cuộc đời quan trường của Lê Đại Cang với cuộc đời quan trường của Nguyễn Công Trứ. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm như: “Nam hành”, “Tục Nam hành”, “Tĩnh Ngu thi tập”, “Lê thị gia phả”… Quý nhất là hai tập bút ký “Nam hành” và “Tục Nam hành” ghi chép những ngày tháng ông làm quan ở phương Nam và đất Chân Lạp với nhiều tài liệu chân thực, sinh động có thể giúp chúng ta hiểu được nhiều sự thật trong công việc khai mở, bảo vệ đất đai bờ cõi của cha ông ta 200 năm trước cũng như cuộc sống của người dân miền Tây sông nước, người dân nước láng giềng Campuchia. Các cuốn “Nam hành”, “Tục Nam hành”, “Tĩnh Ngu thi tập” đã thất lạc, chưa tìm thấy, chỉ còn “Lê thị gia phả”. “Lê thị gia phả” là gia phả của một dòng họ, nhưng một số nhà nghiên cứu cổ văn đánh giá, nó có giá trị như một tác phẩm văn học.
HẠNH ĐỖ
Nguồn: tienphong.vn

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TỔNG ĐỐC - TUẦN PHỦ LÊ ĐẠI CƯƠNG TRONG XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN VÀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở AN GIANG 1832 - 1838

Tác giả: Trần Văn Đông, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh An Giang.


Lê Đại Cương (1771-1847) quê thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, sinh ra trong một gia tộc nhà nho nghèo, gặp lúc binh lửa can qua, lại sớm mồ côi cha mẹ, bằng con đường tự học và khổ luyện, ông đã trở thành một danh sĩ văn võ toàn tài và đem tài năng ra giúp nước.
Suốt hơn 40 năm làm quan dưới ba triều vua Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị), ông đã ghi dấu ấn khắp hai miền Nam Bắc. Ông từng làm Quyền Tổng trấn Bắc Thành, Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang, Thượng thư bộ Binh, Tổng đốc An Giang - Hà Tiên, Tuần phủ An Giang, Trấn Tây Tham tán Đại thần bảo hộ Chân Lạp, …
Lê Đại Cương được sử sách triều Nguyễn và các nhà nghiên cứu lịch sử sau này đánh giá là có nhiều công lao trong xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, nhất là ở vùng đất An Giang - Hà Tiên phía Tây Nam tổ quốc.Ông cầm quân đánh giặc Xiêm La, giữ yên bờ cõi nước ta và tham gia bảo vệ nền độc lập của nước Chân Lạp từ năm 1832 - 1838.
Trong nội dung bài viết này, tôi nêu lên những đóng góp của Lê Đại Cương từ năm 1832 - 1838 trong phát triển kinh tế - xã hội và đoàn kết dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang.
I. Lê Đại Cương trong xây dựng chính quyền ở vùng đất mới
Năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập tách từ trấn Vĩnh Thanh. Đây là đất mới khai khẩn chưa đặng bao lâu, là vùng biên địa có nhiều dân tộc, là cửa ngỏ thông qua Chân Lạp, Xiêm La. Vua Minh Mạng đã chọn Lê Đại Cương
Qua lời phủ dụ trên đây, vua Minh Mạng rất coi trọng và đánh giá cao tài năng và kinh nghiệm của Lê Đại Cương trong quản lý và xây dựng chính quyền hai tỉnh An Giang và Hà Tiên mới vừa thành lập là vô cùng quan trọng trong chiến lược mở mang đất nước. Hơn nữa đây là vùng đất biên thùy giáp Chân Lạp và Xiêm La luôn bất ổn về chính trị, chiến tranh rình rập và sẵn sàng nổ ra bất cứ lúc nào.
Khi đến vùng đất mới An Giang, Tổng đốc Lê Đại Cương đã thực hiện nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách như:
1. Củng cố đội ngũ quan lại
Ngoài các chức quan hiện có tại tỉnh An Giang, Lê Đại Cương đã xin triều đình bổ sung thêm những quan lại có khả năng thực thi nhiệm vụ tốt nhất chẳng những ở An Giang mà có khả năng giúp quản lý bảo hộ Chân Lạp. Yêu cầu này được vua Minh Mạng đồng ý. Điển hình là nhà vua cho Hồ Công Chỉ lĩnh chức Chủ sự Bộ Binh: “Cho Tư vụ thự Chủ sự là Hồ Công Chỉ làm Chủ sự bộ Binh, theo Tổng đốc và Tuần phủ An - Hà (An Giang- Hà Tiên) kiêm lĩnh Bảo hộ là Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân làm việc công thành Nam Vang. Hồ Công Chỉ, trước đây do chức thự Tư vụ làm việc ở Binh tào thành Gia Định cũ, nhân việc đưa người Xiêm gặp nạn về nước, do thám được tình hình nước ấy, biên chép rõ ràng. Vua sai vời về Kinh, hỏi lại.Chỉ tấu đối rất tường tận.Vua khen, liền cho thực thụ Tư vụ, thự Chủ sự và thưởng 15 lạng bạc. Đến bấy giờ lũ Lê Đại Cương cho Chỉ là người lanh lẹ, được việc lại am hiểu tình hình biên giới, xin bổ chức ấy”[2].
2. Huấn luyện quân đội
Nhiệm vụ huấn luyện quân đội, xây dựng đồn lũy luôn được Lê Đại Cương đặt lên hàng đầu. Ngay từ những ngày đầu tiên về nhận Tổng đốc An Hà, ông đã khảo sát toàn tuyến phòng thủ của hai tỉnh, đặc biệt trên kinh Vĩnh Tế, các đồn trên sông Tiền, sông Hậu,…và có những kiến nghị với triều đình gia cố thêm hoặc bỏ bớt những nơi không cần thiết nhằm tập trung quân những nơi cần thiết. Những đề xuất của Lê Đại Cương hầu như được vua Minh Mạng đồng ý cho thực hiện.
Điển hình như tháng 7-1834 cho xây ba đồn mới: đồn Vĩnh Tế, đồn Vĩnh Ngươn, đồn Châu Phú[3], hoặc đến tháng 6-1835, tỉnh An Giang có 11 thủ sở, Lê Đại Cương đề nghị giữ lại 06 thủ sở xung yếu: Tân Châu, An Lạc ở Tiền Giang, Châu Giang, Cường Thắng, Trấn Di ở Hậu Giang và Mỹ Thanh. Còn 05 thủ sở: Cường Thành, Cường Uy, Thuận Phiếm, Vĩnh Hùng và Trấn Giang đều bỏ. Vua y theo đề nghị[4].
Ngoài ra, Lê Đại Cương còn đề nghị về luân phiên thay đổi các đạo binh của tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên làm nhiệm vụ quốc tế ở Nam Vang nhằm duy trì sức chiến đấu của quân sĩ cũng như sản xuất tại nơi đóng quân. Đề nghị nàyhợp tình hợp lý, được các tỉnh và quân binh ủng hộ, vua Minh Mạng chấp thuận ngay. Đây là một chính sách khôn khéo hợp lòng dân. Từ đó, lý giải vì sao Lê Đại Cương trấn nhậm ở An Giang được nhiều năm như vậy vì theo vua Minh Mạng chủ trương cho các quan luân chuyển liên tục để tránh các vấn nạn xảy ra.
Cũng từ những ý tưởng thương quân dân nêu trên, Lê Đại Cương đã cho thuộc hạ chiêu tập được 10 đội quân Phiên đóng quân tạm tại đồn Châu Đốc, vua ưng cho và đặt tên là cơ An Biên.
3. Sửa chữa thành Châu Đốc
Khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, vùng đất An Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh. Năm Gia Long thứ 15 (1817), thành Châu Đốc[5] được Lưu Phước Tường (trấn thủ Vĩnh Thanh) chỉ huy xây dựng đầu tiên, sau đó được tu bổ nhiều lần.Đây cũng là nơi làm việc của quan Thống chế Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại từ năm 1818 đến năm 1828, sau đó là quan bảo hộ Tuyên Trung Hầu Nguyễn Văn Tuyên. Năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập, các cơ quan của tỉnh đều ở tại thành Châu Đốc.
Vào tháng 4-1834, Tuần phủ Lê Đại Cương vâng lệnh triều đình cho đắp lại thành Châu Đốc. Thành có chiều rộng 60 trượng, chiều dài 140 trượng, Lê Đại Cương cho cắt 80 trượng của chiều dài, thành còn lại hình vuông 60x60 trượng, mặt hướng ra bờ sông Châu Đốc. Và thành này tồn tại đến năm 1867 bị thực dân Pháp xâm chiếm và hủy thành sau đó.
4. Xây thành An Giang
Thành An Giang đã được chính sử nhà Nguyễn ghi chép khá rõ, nhất là trong Đại Nam thực lục: Chủ trương xây thành An Giang có từ tháng giêng năm 1833, địa điểm tại thôn Long Sơn (thị xã Tân Châu ngày nay).Tháng 3-1833, xây dựng tỉnh thành An Giang, Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu nói: “Chỗ đất thành mới, bên tả gần sông dài, đằng trước, đằng sau và bên hữu đều là rừng rậm. Trước phải chặt cây phát rừng, rồi mới có thể khởi công. Vả lại đằng trước và bên hữu nên đào thủy đạo để lấy đất đắp thành quách, nền hành cung, nhà kho, dinh thự và làm chỗ cho sau này nhân dân dựng nhà ở chung quanh. Nhưng công trình này khó khăn to lớn, xin mướn một phần ba dân ở 4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên thuộc bản hạt, và ½ dân huyện Vĩnh Bình thuộc Vĩnh Long và Kiến Đăng thuộc Định Tường góp sức cùng làm. Vua cho rằng: “Thời tiết đã muộn, nên xuống dụ bảo phải gia tâm đốc thúc làm nhanh, cho khỏi đến kỳ mưa lụt khó làm”[6].
Việc xây thành An Giang dự định trong vài tháng xong, nhưng phải dừng lại nửa chừng do nổi loạn của Lê Văn Khôi ở Gia Định và lan ra các tỉnh Nam kỳ.Việc này được ghi rõ: “Vua truyền dụ Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương lập tức xét theo số binh và dân hiện đang làm việc xây thành, cấp khí giới tiền lương, vát lấy nhiều thuyền, đốc thúc quan quân, hương dõng thuận dòng xuôi xuống, hội quân Long Tường cùng đi đánh dẹp”[7]. Và rồi thành Châu Đốc (tỉnh An Giang) thất thủ, Lê Đại Cương bị cách chức Tổng đốc An Hà.Như vậy, thực tế thành An Giang có xây, nhưng bỏ dở giữa chừng rồi hoang phế. Hiện nay, địa điểm thành An Giang cũ là ngôi chùa Giồng Thành (Long Hưng Tự) được xếp hạng di tích quốc gia.
5. Xây thành Trấn Tây tháng 3-1835
Với tư cách là Tuần phủ An Giang kiêm Trấn Tây tham tán đại thần, Lê Đại Cương đã cùng quan Tướng quân Trương Minh Giảng chỉ huy xây thành Trấn Tây ở Nam Vang để ổn việc giúp đất nước Chân Lạp vừa trải qua cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm La.
6. Tổ chức nạo vét sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao
Tháng 3-1833, Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương đề xuất nạo vét lại đoạn sông Tiền từ Tân Thành đến sông Hậu đoạn Châu Đốc dài hơn 3.800 trượng. Thời gian thực hiện trong tháng là xong. Về nhân lực lao động, ngoài dân An Giang, triều đình cho mướn thêm ½ dân 5 huyện Vĩnh Trị, Tân Minh, Bảo An thuộc Vĩnh Long và Kiến Hưng, Kiên Hòa thuộc Định Tường đến thi công. Khi chủ trương nạo vét lại các sôngnày, Lê Đại Cương phải đi thuyền khảo sát từ phủ Tân Thành (Sa Đéc hiện nay) đi qua sông Vàm Nao và ngược lên Châu Đốc.
Việc nạo vét sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Nao đã tạo điều kiện cho việc điều binh khi có chiến tranh và thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân.
7. Làm đường bộ
Tháng 8-1835, Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương chỉ huy hoàn thành ba con đường bộ quan trọng của tỉnh là:
- Từ trạm Giang Phúc (Châu Đốc) đi Vĩnh Long dài 25.800 trượng.
- Từ Châu Đốc đi Hà Tiên dài 14.500 trượng.
- Từ Châu Đốc đi Trấn Tây dài 14.900 trượng.
Ba con đường làm xong đã thuận lợi nhiều mặt cho quan quân và nhân dân dễ dàng đi lại.
8. Chăm lo phát triển kinh tế- xã hội
Đây là một nội dung lớn với vai trò Tổng đốc rồi Tuần phủ An Giang suốt 06 năm trời Lê Đại Cương đã có những đề xuất tạo thuận lợi cho người dân được nhà vua chấp thuận như: Hỗ trợ dân nghèo; mua gạo giá cao thỏa thuận để dự trữ; bỏ lệ cấm bán gạo muối qua Trấn Tây- thông thương tự do;quy định ghe thuyền của An Giang và Trấn Tây sơn mùa lụt để phân biệt ghe thuyền các tỉnh; đề xuất đóng thuế một đầu ở Nam kỳ lục tỉnh (tránh đánh thuế nhiều lần gây thiệt hại cho dân, ...). Những việc làmcủa Tổng đốc Tuần phủ Lê Đại Cương - người đứng đầu tỉnh An Giang đã tác động rất lớn đến tâm lý người dân trong việc trồng lúa và buôn bán lúc bấy giờ.
9. Tham gia đo đạc địa bộ tỉnh An Giang năm 1836
Đến tháng 6-1836, nhà Nguyễn đo đạc xong địa bạ Nam Kỳ trong đó có tỉnh An Giang (An Giang làm trong 01 tháng), những người chỉ huy thực hiện công trình này đều được khen thưởng. Đây là công trình lớn của triều Nguyễn, qua đó, giúp chúng ta biết được về thực trạng đất đai, con người và các nội dung khácliên quan đến đất đai, địa bạ của tỉnh An Giang lúc bấy giờ. Lê Đại Cương với tư cách người đứng đầu tỉnhđã tích cực chỉ đạo thuộc quyền tham gia công tác đo đạc địa bộ tỉnh An Giang năm 1836.
10. Lập phủ Ba Xuyên
Phủ Ba Xuyên trước đây là phủ Ba Thắc, thường quan đầu phủ triều đình bố trí người Phiên quản lý.Tháng 7-1835, vua Minh Mạng quyết định đổi tên từ phủ Ba Thắc thành phủ Ba Xuyên trực thuộc tỉnh An Giang. Tuần phủ Lê Đại Cương trực tiếp điều hành phủ mới này, ông đã lập được mới 07 thôn với sổ đinh 116 người, sổ bộ điền 624 mẫu[8].
II. Đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia
1. Chống bạo loạn Lê Văn Khôi, đánh giặc ngoại xâm
Dấu ấn lớn nhất trong cuộc đời làm quan của Lê Đại Cương là để mất thành An Giang và Hà Tiên vào tháng 5-1833 do cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Ông bị cách chức Tổng đốc An Hà, nhưng với ý chí kiên cường ông đã vận dụng tài thao lược, tập hợp lại đạo binh mới do chính ông huấn luyện đồng thời phối hợp với hùng binh của triều đình đánh tan quân bạo loạn, chiếm lại thành An Giang ổn định tình hình. Từ An Giang, ông chỉ huy đạo binh tiến về giải vây thành Gia Định.
Cũng từ thời điểm này, Lê Đại Cương được lệnh của triều đình chỉ huy đạo quân đánh đuổi giặc Xiêm La đang xâm lược nước ta từ nhiều hướng. Với những thắng lợi liên tục, Lê Đại Cương và các tướng lĩnh khác đánh thắng giặc Xiêm nhiều trận, đẩy chúng về biên giới Chân Lạp – Xiêm La, giữ vũng toàn vẹn độc lập dân tộc, đồng thời giúp chính quyền Chân Lạp giải phóng ách xâm lược của giặc Xiêm La từ bao đời.
Do lập được nhiều chiến tích nên chỉ trong vòng 4 tháng cuối năm 1833, Lê Đại Cương được thăng 04 chức vụ liên tục: Binh bộ Viên ngoại lang kiêm Phó lãnh binh; Án sát sứ; Bố chính sứ kiêm Lãnh binh; Thự Tuần phủ An Giang. Đến giữa năm 1835, ông chính thức được bổ nhiệm Tuần phủ An Giang kiêm Trấn Tây tham tán đại thần.Chức vụ này được duy trì đến tháng 02-1838.
Khi nhớ về cuộc chiến tranh chống xâm lược Xiêm La nói trên, trong Lê thị gia phả Lê Đại Cương ghi nhận như sau: “Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 14, vừa nhậm chức được 5 tháng thì Phiên thành (chỉ Gia Định) có loạn, giặc chiếm cứ lan tràn ra các tỉnh Định Biên, Long Tường, một mình tôi điều động binh thuyền chống cự ở vùng tiếp giới, thế giặc liều lĩnh điên cuồng, đành phải rút lui về Châu Đốc để chờ viện binh của triều đình. Một đêm binh sĩ tứ tán khó bề cố thủ. Tôi nghĩ, muốn dược chữ nhân thì việc sống chết phó cho trời, chi bằng lập kế sách thu hiệu quả về sau, giành lại các vùng đất bị mất. Tôi bèn dẫn mấymươi người tùy tùng lánh vào đất Chế Lăng của Cao Miên, chiêu tập thêm người Việt xiêu tán cùng người Miên, gần hai ngàn người quyết chí theo tôi. Tôi huấn luyện kỹ càng biến dân ô hợp thành đội quân chính quy, nuôi chí triêm cừu, cùng sống với họ như anh em. Đoạn theo đường Long Tường kéo binh về tỉnh An Giang, giao chiến với giặc tại Lô Tư, đánh vào Cẩm Đàm. May gặp quân triều ở đấy, giặc liều chết giữ côthành Gia Định. Tôi cùng các đạo quân ta chia các nẻo tấn công vào những nơi chúng chiếm cứ.
Cuộc đời đã trải qua của tôi chưa hề gặp sự gian hiểm nào như lúc này. Nhưng gánh nặng biên cương, sự thất bại ở góc trời Đông để mất thành An Giang trước đây tội không nhẹ….
Mùa Đông năm ấy (1833), giặc Xiêm La tiến đánh Cao Miên, vua Miên bỏ kinh thành Nam Vang mà chạy sang ta. Các đạo quân ta vâng lệnh đánh trả, tiến phát về Nam Vang bằng đường thủy.Riêng tôi vâng mệnh chặn giặc bằng đường bộ ở Quang Hóa. Tôi đưa quân vào rừng sâu đoạt địa thế hiểm yếu, bất chấp sơn lam chướng khí, chiến đấu ngoan cường, cùng các đạo quân khác quét giặc Xiêm về tận biên giới Xiêm La, thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Cao Miên…[9]
2. Tham gia bảo hộ Chân Lạp từ năm 1834-1838
Với chức trách Tuần phủ - người đứng đầu tỉnh An Giang và kiêm Trấn Tây tham tán đại thần, Lê Đại Cương đã làm tốt nhiệm vụ của mình là xây dựng tỉnh An Giang phát triển ngày ổn định vững mạnh sau chiến tranh loạn lạc, đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế với quốc gia Chân Lạp.
Lê Đại Cương cùng với Tướng quân Trương Minh Giang giúp vua Chân Lạp củng cố bộ máy chính quyền các cấp, tuyển lựa người tài bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng ở các phủ, huyện; huấn luyện quân sĩ Chân Lạp; xây thành Trấn Tây; đo đạc địa bộ thành Trấn Tây; động viên binh sĩ và nhân dân thực hiện chính sách ngụ binh ư nông; giáo dục các phong tục tập quán tốt, bỏ các mê tín hủ lậu; xóa các rào cản thông thương để việc đi lại của nhân dân lục tỉnh lên Nam Vang thuận lợi.
Công tâm mà nhận xét, từ một quốc gia Chân Lạp biến đổi thành Trấn Tây thành- nhiệm vụ của những người đứng đầu ở vùng đất này muôn vàn khó khăn, trong đó có Lê Đại Cương. Ônglà nhân vật điển hình của chính quyền bảo hộ. Vì sự thất bại trong bảo hộ Trấn Tây, vua Minh Mạng cho rằng Lê Đại Cương bỏ quên nhiệm vụ nên cách chức ông làm gương. Nhưng rồi sau đó ba năm, vua Thiệu Trị ra lệnh rút toàn bộ quân đội ở Trấn Tây về thành An Giang, đến đổi Tướng quân Trương Minh Giảng buồn sanh bệnh rồi mất ở Châu Đốc tháng 7-1841.
III. Công tác đoàn kết dân tộc ở An Giang
Từ lâu đời, ở An Giang có nhiều thành phần dân tộc sinh sống cộng cư như: ngưởi Việt, Thủy Chân lạp, người Chăm, người Mã Lai, Ấn Độ,… Do đó, nhiệm vụ của những quan đầu tỉnh An Giang qua các thời kỳ luônđặt nặng công việc đoàn kết các dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước. Đối với Lê Đại Cương cũng vậy, với vai trò Tổng đốc, Tuần phủ rồi Trấn Tây Tham tán đại thần ông đã vận dụng một cách tài tình trong đoàn kết dân tộc suốt 06 nămtrấn nhậm ở An Giang.
Qua tư liệu cho thấy các binh sĩ người dân tộc (Phiên, Man) dưới quyền đều hết lòng với ông, do ông xem họ như anh em. Đối với nhân dân các dân tộc ông thương yêu lo lắng, khi họ thiếu đói, ông đề xuất triều đình mua lúa gạo giá cao để dự trữ và phân phát hỗ trợ khi khó khăn; hướng dẫn người dân Trấn Tây thành sản xuất nông nghiệp; bố trí cho người Minh Hương ở theo từng làng buôn bán sinh sống, lập sổ bộ thu thuế quản lý hợp lý. Đối với dân tộc Chăm tập trung ở Châu Giang ông tạo điều kiện để họ tồn tại và phát triển, …
Tháng 7-1834, Đốc phủ quân thứ Nam Vang, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương tâu với vua kế hoạch giữ đất Phiên: “1. Chia đặt quan Phiên coi giữ những nơi trọng yếu; 2. Xem xét đất Phiên, thiết lập đồn trại; 3. Lựa lấy lính Phiên; 4. Lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên); 5. Chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng cho nước Phiên (Sai kiếm sào tre và sắt sống để làm trường thương, đóng thuyền và luyện thuốc súng); 6. Chiêu tập cơ binh An Biên; 7. Khám xét các thuyền buôn ở Quảng Biên; 8. Kinh lý biên phòng tỉnh Hà Tiên. Vua đều cho làm đúng như lời đã kiến nghị[10].
Do làm tốt công tác đoàn kết dân tộc, Lê Đại Cương nhiều lần được vua khen thưởng.
IV. Một vài nhận xét nhân vật lịch sử Lê Đại Cương đối với An Giang
1. Với tư cách Tổng đốc đầu tiên tỉnh An - Hà mới thành lập, Lê Đại Cương chủ trì việc xây thành mới An Giang, chấn chỉnh quân đội, huấn luyện binh sĩ. Chủ trì khai mở đường thủy từ sông Tiền Giang ở Tân Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc. Chiêu mộ được 10 đội quân Phiên (Chân Lạp) được vua đặt tên là cơ An Biên. Tham gia tích cực trong chiến đấu chống tạo phản Lê Văn Khôi và quân xâm lược Xiêm La, bảo vệ vững chắc thành An Giang nói riêng, giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam thời vua Minh Mạng.
2. Ngoài việc chăm lo an ninh, giữ gìn bờ cõi cho đất nước, Đốc- phủ Lê Đại Cương còn dốc lòng mở mang sản xuất, khuyếch trương kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, nâng cao đời sống của người dân An Giang và Nam kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ.
3. Lê Đại Cương là người yêu nước, thương dân, nguyện sống hết mình vì nước vì dân, là một con người có ý chí sắt đá, kiên cường vượt qua bao chông gai cuộc đời quan trường. Ngày về hưu còn lại cái đòn khiêng của anh lính bị đày, nhưng ông đã vượt qua tất cả để đi lên.Đây là bài học thâm thúy nhất, tôi tâm đắc ở nơi ông sự chịu đựng, sự kiên nhẫn để sống ngẩng cao đầu khi về quê nhà trí sĩ ở tuổi 70.
4. Cuộc đời Lê Đại Cương là một biểu tượng về cái tài, cái tâm của kẻ sĩ, một cuộc đời mà biết bao người xưa nay phải khao khát, ngưỡng mộ. Những giá trị từ di sản và bài học lịch sử về thời kỳ Lê Đại Cương cũng như cuộc đời ông chứa đựng rất nhiều ý nghĩa cho hành trình đổi mới của xã hội, đất nước và con người Việt Nam hôm nay.
5. Lê Đại Cương với gần 40 năm quan trường ở hai miền Nam- Bắc đất nước, phụng sự ba triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, có 06 năm gắn bó với vùng đất An Giang, là người có nhiều đóng góp cho tỉnh An Giang sau khi thành lập tỉnh từ năm 1832- 1838.
 Để tưởng nhớtiền nhân có công với tỉnh, chính quyền tỉnh An Giang và thành phố Châu Đốc xem xét lấy tên ông đặt tên Tổng đốc Lê Đại Cương cho một con đường để xứng đáng với những công lao to lớn của ôngthuở trước. Qua đó, góp phần giáo dục lịch sử truyền thống tỉnh An Giang từ xưa đến nay.
Nguồn: vanhien.vn

CHÚ THÍCH:
[1] Đại Nam thực lục chính biên tập XI, Nxb Khoa học, Hà Nội - 1964, trang 253.
[2] Đại Nam thực lục tập XII, NNxb Khoa học, Hà Nội - 1965, trang 58
[3] Đại Nam thực lục tập XV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội -1965, trang 38.
[4] Đại Nam thực lục tập XVI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội -1966, trang 286.
[5] Đại Nam nhất thống chí tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế 1992, trang 165.
[6] Đại Nam thực lục tập XII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1965, trang 83.
[7] Đại Nam thực lục tập XII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1965, trang 241.
[8] Đại Nam thực lục tập XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội -1968, trang 139.
[9] Lê Đại Cang và Lê thị gia phả, Nxb Dân Trí - 2011, trang 74 - 75.
[10] Đại Nam thực lục chính biên tập XV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1965, trang 110-113.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Đại Nam thực lục chính biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội từ 1965 -1970.
  2. Đại Nam Chính biên liệt truyện, Nxb Văn học - 2004.
  3. Minh Mệnh chính yếu, Nxb Thuận Hóa - 2010.
  4. Lê Đại Cang nhân cách bậc quốc sĩ, Nxb Hội Nhà văn - 2013.
  5. Lê Đại Cang và Lê thị gia phả, Nxb Dân Trí - 2011.
  6. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn phần tỉnh An Giang, Nxb TP. Hồ Chí Minh - 1995.
  7. Nguyễn Q Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa - 1999.
  8. Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, Huế - 1992.
  9. Cao Xuân Dục, Quốc triều sử toát yếu, Nxb Văn Học - 2002.

DẤU ẤN TỔNG ĐỐC AN - HÀ LÊ ĐẠI CƯƠNG TRÊN ĐẤT AN GIANG VÀ NAM KỲ

Tác giả: ThS. Võ Thành Hùng, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ.


1. Mở đầu
Với 76 tuổi, có 40 năm dấn thân chốn quan trường, trải qua 3 triều vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, hoạt động của Lê Đại Cương diễn ra trên cả nước, rất đa dạng và cũng rất thăng trầm, nhưng qua tìm hiểu thân thế, sự nghiệp, tài năng, đức độ của ông, trong đó có công rất lớn của ông trên vùng đất An Giang và Nam Kỳ, cho phép chúng ta khẳng định Lê Đại Cương là một Nho tướng, một danh nhân, một bậc đại trượng phu tài hoa, nhưng cũng đầy gian lao. Nhưng tựu chung lại ở Lê Đại Cương vẫn là một con người yêu nước, thương dân theo cách rất riêng của mình.
Tuy thời gian trên đất An Giang & Nam Kỳ không nhiều, nhưng ông đã để lại nhiều công trạng, tạo ra một dấu ấn riêng của mình trên vùng đất An Giang &Nam Bộ.
2. Nội dung
2.1. Vài nét về tiểu sử
Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, tại thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lại sớm mồ côi cha lẫn mẹ, thuở thiếu thời lại gặp phải chiến tranh loạn lạc, Lê Đại Cương không có điều kiện đi học, phải khổ học và tự học tại nhà. Đến năm 16 tuổi (1787) ông mới được theo học Nguyễn Tử Nghiễm (giữ chức Thị giảng học sĩ triều Tây Sơn). Sau đó được học với Đặng Đức Siêu - một danh sĩ của Bình Định lúc bấy giờ. Trong vòng sáu năm quên ăn, quên ngủ để dùi mài kinh sử”, nên khi tham gia chốn quan trường, Lê Đại Cương được đánh giá là người có tài về văn học. Năm 1802, sau khi Gia Long lên ngôi, Lê Đại Cương được Nguyễn Huỳnh Đức tiến cử và được bổ nhiệm làm Tri huyện huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Lúc đó ông đã 31 tuổi, từ đó 40 năm dấn thân chốn quan trườnghoạt động của Lê Đại Cương diễn ra trên cả nước, rất đa dạng và cũng rất thăng trầm. Đến tháng 10/1842, ở tuổi 71, thự Bố chính sứ Lê Đại Cương mới được nghỉ hưu. Năm 1847, sau 5 năm nghỉ hưu, biên soạn “Lê thị gia phả” để lại cho con cháu, Lê Đại Cương bệnh và mất tại quê nhà, hưởng thọ 76 tuổi.
2.2. Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương trên vùng đất Nam Kỳ
Tháng 9 năm 1824, Lê Đại Cương, được điều vào làm Cai bạ Vĩnh Thanh (Vĩnh Long); Tháng 5 năm 1825 ông về Quảng Nam do sông đào Vĩnh Điện bị sụt lở...lỡ mất cơ duyên với vùng đất Nam Bộ.
Tháng 11/1832, sau khi lập Nam Kỳ Lục tỉnh, vua Minh Mạng bổ nhiệm Lê Đại Cương làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc”, đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời làm quan của Lê Đại Cương. Sau 10 năm “tung hoành, ngang dọc” trên mọi mặt trận của đời sống xã hội thời đầu Minh Mạng ở đất Bắc, viên quan sinh trưởng ở miền Trung Lê Đại Cương đã chuyển hướng vào “tung hoành, ngang dọc” trên mảnh đất mới ở cực Nam Tổ quốc. Rõ ràng, Lê Đại Cương là vị Tổng đốc An - Hà đầu tiên. Việc Minh Mạng giao chức vụ Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc”cho Lê Đại Cương chứng tỏ ông có đầy đủ uy tín và năng lực của một vị quan từng trải trong Nam, ngoài Bắc, từng đảm nhiệm nhiều trọng trách, được vua tin cậy. Tuy nhiên đây là thử thách to lớn nhất với ông trong cuộc đời quan trường.
Thời gian làm Tổng đốc An - Hà, kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc” (từ 11- 1832 đến tháng 7 năm 1841). Trong sách Đại Nam thực lục có nhiều trang ghi chép về Lê Đại Cương.
Ở bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu về một số lãnh vực như: Quản lý, xây dựng tỉnh thành An Giang, quân sự, ngoại giao và lòng yêu thương dân, yêu nước....của Lê Đại Cương trên đất An Giang & Nam Kỳ mà thôi, cụ thể:
* Công lao xây dựng An Giang
 Tháng 11 năm 1832, “Dùng nguyên Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc”. Vua gọi và dụ rằng: “An Giang là tỉnh mới đặt, trong thì trấn thủ, vỗ về nước Phiên [Đại Nam thực lục (ĐNTL), Tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.820], ngoài thì khống chế nước Xiêm, sự thể rất quan trọng. Ngươi nay cai trị đất ấy, phàm những việc quân, dân, trọng đại cùng thành trì và kho tàng đều nên hết sức lo liệu để phu phỉ ý ta mong ngươi làm được thành công” [Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.426-427].
Với một tinh thần nhiệt huyết, năng nổ tháng 3 -1833, Lê Đại Cương cho xây dựng tỉnh - thành An Giang. Tổng đốc An - Hà là Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu nói: “Chỗ đất thành mới, bên tả gần sông dài, đằng trước, đằng sau và bên hữu đều là rừng rậm. Trước phải chặt cây phát rừng, rồi mới có thể khởi công. Vả lại đằng trước và bên hữu nên đào thủy đạo để lấy đất đắp thành quách, nền hành cung, nhà kho, dinh thự và làm chỗ cho sau này nhân dân dựng nhà ở chung quanh. Nhưng công trình này khó khăn to lớn, xin mướn một phần ba dân ở 4 huyện Vĩnh An, Vĩnh Định, Đông Xuyên, Tây Xuyên thuộc bản hạt, và một phần hai dân 2 huyện Vĩnh Bình thuộc Vĩnh Long và Kiến Đăng thuộc Định Tường góp sức cùng làm. Vua cho rằng : “Thời tiết đã muộn, nên xuống dụ bảo phải gia tâm đốc thúc làm nhanh, cho khỏi đến kỳ mưa lụt khó làm”. Lũ Lê Đại Cương lại bàn khai thủy đạo từ sông Tiền Giang ở Tân Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc hơn 3.800 trượng; xin mướn thêm một phần hai dân 5 huyện Vĩnh Trị, Tân Minh, Bảo An thuộc Vĩnh Long và Kiến Hưng, Kiên Hòa thuộc Định Tường đến làm việc”. Vua chuẩn y”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.503].
Tháng 5- 1833, “Lê Đại Cương, Tổng đốc An - Hà, tâu nói:Việc sửa đắp thành mới An Giang đã dần dần xong. Duy còn đường thủy đạo hiện đương khai đào một đoạn giáp Hậu Giang dài hơn 1.050 trượng. Nay đương mưa luôn, việc làm ruộng đang cần, vậy những dân các huyện hiện đương làm việc ở đó, hễ ngày nào xong thì xin cho họ về ngay để làm ăn. Đến như cái hào dưới chân thành và các đoạn sông đào chưa khai, xin chờ đến chính mùa đông khô ráo, hãy theo thứ tự mà làm. Vả lại, nay công việc làm thành tuy mới tạm ổn, nhưng thế cục đã thành, cơ chỉ đã định. Phàm đường lối trong ngoài ra vào cùng với chợ búa phố xá đều đã dự vạch ra trước, để cho người ta biết đến đấy ở, sớm thành nơi vui vẻ. Nếu lại trở về Châu Đốc, sợ rằng dân mới tụ họp sẽ lại tản mát nơi khác. Thần đã đem số tre chặt rồi rào giậu 4 mặt, tạm làm cái thành bằng tre, và tạm thời dựng nhà kho, công đường và nhà làm việc để tiện việc dọn đến ở. Còn tòa hành cung dựng ở Châu Đốc trước, thì gỗ lim còn dùng được, nên dỡ mang về Tân Thành để xây dựng. Lại nữa, huyện Tây Xuyên là kiêm lý của phủ Tuy Biên, chính Châu Đốc ở trong địa hạt ấy. Vậy, xin lấy đồn ấy dùng làm phủ lỵ để cho sự ở được hùng tráng. Vua đều nghe theo”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.583-584].
Trước khi tiến hành xây dựng thành An Giang, ông đã đích thân đo đạc và chỉ đạo việc vẽ thành và lên kế hoạch chi tiết xây dựng thành An Giang. Với ông thì luôn trăn trở nghĩ địa thế đồn Châu Đốc (do Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường chủ trì xây dựng năm 1815), [Hiện nay, nơi đây là Doanh trại bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang], hiện thời lúc đó quá chật hẹp, chưa được tiện lợi để bảo vệ bờ cõi, đầu năm Quý Tỵ (1833) vua Minh Mạng thứ 14 đã ban lệnh cho Tổng đốc An Hà là Lê Đại Cương và Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân chọn địa điểm khác để xây dựng thành trì.
Sau khi lựa được đất Long Sơn (trước đây thuộc Tân Châu Bảo) là nơi ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên, được nhà vua chấp thuận [Quốc triều chính biên toát yếu (tr. 200) và Đại Nam thực lục (tập 3, trang 469 và 503)]. Vào năm 1831 niên hiệu Minh Mạng 12[ Đại Nam nhất thống chí, tỉnh An Giang, trang 178], vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ, còn công trình ở Long Sơn thì bị bỏ dở dang (hào thành chỉ đào được một số đoạn và chưa xây một viên đá hay viên gạch nào)? Việc xây thành mới An Giang là nơi để quản lý hành chính, chấn chỉnh quân sự, luyện tập binh lính tại đây.
Tuy nhiên, so sánh giữa đất khu vực Châu Đốc và Long Sơn (Tân Châu) thì mỗi nơi đều có vị trí đắc địa, trên núi, dưới sông có nhiều ngả, giáp biên giới...
Chủ trì khai mở đường thủy từ sông Tiền Giang ở Tân Thành thẳng đến sông Hậu Giang ở Châu Đốc dài hơn 3000 trượng. Với ý chí quyết tâm và sự quyết đoán của mình ông đã chỉ huy đào thành công con đường thủy này, không chỉ phục vụ tưới tiêu, rửa phèn, phục vụ cho cuộc sống của người dân mà còn là con đường giao thông huyết mạch trong vùng. Đồng thời còn trở thành lá chắn phòng thủ của quốc phòng - an nhinh bảo vệ tổ quốc.
Ngoài ra, ông còn chỉ đạo việc khai hoang phục hóa, mở rộng đất đai cương thổ và tổ chức làm kinh tế nông nghiệp, buôn bán giao thương cũng phát triển, các “cảng sông”, “cửa khẩu” qua lại hai nước Việt – Chân Lạp cũng được quan tâm. Nhìn chung với cương vị Tổng đốc An - Hà, Lê Đại Cương đã nắm bắt nhanh tình hình, đặc biệt hiểu lòng dân và những suy nghĩ của họ, một vị Tổng đốc lấy dân làm gốc, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng tin dân, yêu mến dân, bênh vực họ, quan tâm đến từng chuyện nhỏ nhặt như: “Nay đương mưa luôn, việc làm ruộng đang cần, vậy những dân các huyện hiện đương làm việc ở đó, hễ ngày nào xong thì xin cho họ về ngay để làm ăn...”, ”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.584]. Một vị tướng uyển chuyển linh hoạt công việc theo lịch vụ sản xuất và nắm vững thời tiết.
Có thể nói Lê Đại Cương rất am hiểu về văn hóa, phong tục đất An Giang & Nam Kỳ, cho nên mọi việc ông đưa ra đều hợp với lòng dân ở vùng đất này và chính Vua Minh Mạng nhiều lần nghe và thuận lời tấu của ông.
* Bảo hộ Chân Lạp quốc với tinh thần giữ gìn tình đoàn kết các dân tộc anh, em và công việc đối ngoại
Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp.[Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục].Tổng đốc Lê Đại Cương lại có trách nhiệm trong việc bảo hộ Chân Lạp quốc, nên thông thạo hết cả tình hình biên giới, nước Chân Lạp. Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân phàm những việc có quan hệ đến mềm dẻo để lấy lòng thuộc quốc, đề phòng chế ngự nước láng giềng nên cùng lòng bàn bạc làm đúng sự cơ, không khinh suất, luôn giữ thể diện, uy danh của người dân nước Việt nên ông luôn nghiêm lệnh và ngăn cấm thuộc viên, thân thích lính tráng sách nhiễu dân tộc Man (Khmer).
Tháng Giêng năm 1833, tên phản thần nước Chân Lạp là Ốc Nha Cố ở Bắc Tầm Bôn, cầu viện quân Xiêm sang khuấy rối cướp bóc phủ Phủ Lật. Vua Chân Lạp là Nặc Chân sai quân đi bắt. Ốc Nha Cố lại trốn đi. Nặc Chân đem việc đó báo cho Tổng đốc An Giang kiêm lĩnh bảo hộ là Lê Đại Cương, Ngô Bá Nhân cho rằng việc ấy có quan hệ đến biên giới, chưa nên vội động binh đao, hãy nên sai đưa thư nhờ nước Xiêm bắt trị cho và trách hỏi viên phủ mục phủ Bắc Tầm Bôn về cớ chứa chấp kẻ phản thần; đợi xem hắn xử trí ra sao, rồi sau sẽ làm cho thỏa đáng. Sớ tâu lên, Vua phê bảo: “...Lũ ngươi làm thế, phải lắm !”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.461-462].
Tháng 7 - 1834, Đốc, phủ quân thứ Nam Vang, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, tâu với vua kế hoạch giữ đất Phiên, với 8 vấn đề mang tầm chiến lược, rất sâu sắc như: (1)“Chia đặt quan Phiên coi giữ những nơi trọng yếu. Chọn lấy người trội trong các quan Phiên để giao quyền binh...thảy đều đốc suất những kẻ thuộc hạ, đem quân vào đồn, theo từng địa hạt mà phòng ngự”. (2) Xem xét đất Phiên, thiết lập đồn trại với 4 chỗ rất quan trọng: Phủ Lật là xung yếu nhất, thứ đến Bông Xui, tiếp đến Khai Biên, Quang Biên và cuối cùng là Sơn Phủ...,(3) Lựa lấy lính Phiên (Tuỳ theo số dân các phủ nhiều hay ít, liệu trích lấy 1 phần 3 hoặc 1 phần lấy 2, phân phái đóng giữ, (4) Lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hoá), người Chà (dòng giống Chà Và cư trú đất Phiên).  Sai họ chiêu tập cho đủ số, để phòng khi có việc sẽ trưng dụng. Còn việc chia cấp ruộng đất bỏ không cho mọi người để ở và trồng cấy sẽ tiếp tục làm sau)...(5) Chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng cho nước Phiên. (Sai kiếm sào tre và sắt sống để làm trường thương, đóng thuyền và luyện thuốc súng). (6) Chiêu tập cơ binh An Biên. (Cơ An Biên lệ thuộc tỉnh An Giang, điều động lấy 500 dân Phiên phủ Chân Chiêm sung vào tập cơ binh..).(7) Khám xét các thuyền buôn ở Quảng Biên. (Cửa biển Cần Bột thuộc phủ Quảng Biên, nếu có thuyền buôn của người nhà Thanh chở hàng hoá vào cảng thì nên báo cho tỉnh Hà Tiên xét thực tình hình, tuỳ việc mà làm, nếu người nhiều hàng ít, thì đuổi đi).(8) Kinh lý biên phòng tỉnh Hà Tiên. (Luỹ dài Phù Dung ở Hà Tiên và pháo đài Kim Dữ hiện đã sửa sang thêm, lại đem cấp cho dầu mỡ để dùng vào việc tu bổ thuyền mành. Về số biền binh đi thú, xin do quân thứ Gia Định trích lấy 1, 2 vệ, 500 người, để giúp toàn lực vào việc đó)...Những lời tâu trên “Vua đều cho làm đúng như lời đã kiến nghị”.”[ĐNTL, Tập Bốn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.297-299].
Tháng 8 -1834, tiếp tục công việc ở  Nam Vang: “Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc, phủ quân thứ Nam Vang, tâu nói: “Nước Phiên mới bắt đầu sửa sang, công việc còn bề bộn. Hai phủ Quảng Biên, Khai Biên đã đặt án phủ sứ, nhưng chưa có lại dịch. Vậy xin đặt ty thừa biện ở thành Nam Vang, 1 chánh cửu phẩm thư lại và 10 vị nhập lưu thư lại, hợp 2 phủ Quảng Biên, Khai Biên làm 1 nha, đặt 1 lại mục và 6 thông lại. Lại xin kế tiếp cấp lương tháng cho những hương dõng đóng giữ thành Nam Vang, đợi các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường và An Giang xong việc tuyển lính, sẽ tư đi lấy người thay đổi”. Vua đều y theo”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.336].
Tháng 9 -1834, ông xử lý tốt vụ tên Sâm và 2 người đàn bà Man dùng tà thuật làm mê hoặc vua Phiên. Việc đến tai vua. Vua cho là phải”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr. 374.] Cũng thời gian này, “Dân Chân Lạp bị đói, đến nỗi có những người phải ăn tấm cám. Vua hay tin, dụ bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương rằng: “Chân Lạp dẫu là dân Man, nhưng cũng thuộc vào bản đồ và dân tịch của triều đình. Trong tình vỗ về thương xót, ta coi cũng như dân ta vậy. Trước đây, giặc Xiêm xâm lấn tàn bạo, ta đã vì người Chân Lạp mà giữ đánh dẹp khu trừ, lại phái trọng binh đến giữ bờ cõi nước ấy, để nhân dân họ không phải ly tán, đệm chiếu nằm yên. Nay họ gặp lúc đói kém này, cũng nên giấn chân, vén xiêm, hối hả cứu giúp, chứ đâu nỡ ngồi trông họ chết đói mà không thương? Được tin này, lòng ta không nỡ, huống chi lũ ngươi lại làm ngơ được ư? Nếu quả có sự ấy thì việc phát chẩn không thể trì hoãn được. Chuẩn cho một mặt tâu lên, một mặt tư ngay cho 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường đều chở 10000 phương gạo đến để phân phát, chớ để họ mất nơi ăn chốn ở, thì mới phu phỉ lòng ta vun trồng cho dân ở nơi biên giới”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.382].
Tháng 11- 1834, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc phủ quân thứ Nam Vang, xin lập nhạc hộ ở nhà Nhu viễn. Vua cho việc ấy có quan hệ đến sự vỗ yên nước Phiên, chuẩn y lời xin. Bọn Giảng, Cương lại tâu nói: “Nước Chân Lạp trước đây, vì giặc Xiêm lấn cướp quấy nhiễu, nên kho tàng hết sạch. Bọn thần đã từng khuyên chăm cày cấy và tùy đất khai khẩn, trồng đậu và lúa mạch, hiện đã lục tục được thu hoạch, có thể đỡ được sự khẩn cấp trước mắt. Duy thành Nam Vang trở về phía tây, rất điêu tàn. Bọn thần đã tư cho các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường chở cho 10.000 hộc thóc để phân phát”. Vua dụ rằng : “Làm thế cũng phải. Lũ ngươi nên để tâm trù liệu cốt cho ngoài êm thì mới có thể trong ấm được”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.415] “Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc, phủ ở quân thứ Nam Vang, tâu xin trích lấy những biền binh ở quân thứ Gia Định để đi đóng giữ An Giang và cho xuống thuyền, diễn tập thủy chiến; những cơ binh mới tuyển được lưu lại, đều cho kế tiếp cấp lương tháng. Lại xin trả thêm giá thoả thuận mua thóc gạo để sung vào kho tích trữ. Vua dụ bảo: “Về biền binh trú phòng, quân thứ Gia Định đã phái đi rồi; còn việc tập thủy chiến và việc giản binh lưu lại, đều chuẩn cho làm như lời đã xin, cốt nên để tâm xếp đặt cho được chỉnh đốn, để vững mạnh việc biên phòng, xứng đáng với trách nhiệm đã giao cho” [ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.420].
Tháng 12- 1834, “Vua nước Chân Lạp là Nặc Chăn chết. Bọn Tổng đốc Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương được vua ban khen do làm tốt chức trách, với lý do: “Địa hạt Chân Lạp, lúa mới đương chín, lương thực của dân có thể tiếp tế được đủ; duy việc biên phòng đương khẩn. Về số quân Phiên đóng giữ, hiện đã tuân theo dụ, trích 5.000 phương gạo phân phát rồi. Lại nữa, nước Phiên từ khi chọn lựa sắp xếp quân ngũ đến giờ, đội ngũ đã dần dần được chỉnh đốn. Bọn đầu mục cũng biết cảm kích mà hăng hái lên”. Vua ban khen”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.502].
Tháng 6 -1835, “Lãnh chức bảo hộ là Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở thành Trấn Tây tuân Chỉ dụ, xét hạch tài năng phẩm cách các quan Phiên, làm thành danh sách tâu lên. Vua chuẩn cho…”, [ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.654]. Tiếp tục việc giữ bờ cõi, biên giới cho Chân Lạp, tháng 12 - 1835, Lê Đại Cương và Trương Minh Giảng xin vua cho được đặt chức Án phủ ở 3 phủ là  Hải Tây, Hải Đông và Sơn Phủ, được vua chấp thuận: “Tướng quân Trương Minh Giảng và Tham tán Lê Đại Cương ở Trấn Tây cho rằng 3 phủ Hải Tây (Phủ Lật, Puốc-xát (Pursat), nay thuộc tỉnh Pursat), Hải Đông (Bông Xui (Kampong Svay), nay thuộc tỉnh Kampong Thom) và Sơn Phủ đều là địa đầu quan trọng xung yếu, xin đặt mỗi nơi một chức Án phủ. [ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.844.]
Thời gian tháng 6 Nhuận năm 1835, “Lãnh chức bảo hộ là bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở thành Trấn Tây đem địa đồ thuộc thành và ngoài biên cương thành ấy dâng lên. Vua mở xem, thấy vẽ đường sá, hình thế, rõ ràng dễ coi, ban khen. Chuẩn cho xét viên quan Phiên nào đã chỉ dẫn để vẽ thì thưởng cho đồ dùng quần áo…”, [ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.701]...
Trong suốt năm 1836, Lê Đại Cương tiếp tục trấn trị ở thành Trấn Tây. Ông không chỉ lo việc quân mà còn lo cả việc dân, tích trữ lương thực nuôi quân, đảm bảo an ninh ở vùng đất này...
Với tài năng của mình ông đã có công lao giữ gìn an ninh Chân Lạp quốc để không bị quân Xiêm và bọn phản nghịch gây chiến tranh, giúp Vua Phiên chăm sóc con dân toàn diện mọi mặt, đề ra những đối sách mang tính chiến lược có lợi cho cả hai bên, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đào tạo người tài cho nước bạn kể cả huấn luyện binh lính. Đặc biệt coi trọng nhân dân, luôn đứng về họ bênh vực về quyền lợi, những bình đẳng khác, đề nghị và quan tâm việc được thăng quan, lên chức cho những người có công, do đúng công sức trí tuệ bỏ ra. Niềm tin trong nhân dân Man được củng cố và họ nhận thức được việc hỗ trợ, tiếp sức của nước Việt cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi, hoạn nạn có nhau...coi Lê Đại Cương như con em của họ.
 Lê Đại Cương thật sự là một tài năng ngoại giao, tuy là tướng nhưng trong việc “hộ Chân Lạp” ông luôn giữ gìn và hành xử theo phong thái ngoại giao, đức Phật. ông luôn đi sâu, đồng hành với quần chúng nhân dân nước sở tại, cùng họ làm việc, khuyên nhủ với thái độ chân thành coi: “Bạn cũng như mình”, thân yêu, tin tưởng và việc gì giúp được trong bổn phận trách nhiệm sẽ giúp tới nơi tới chốn. Chính vì lẽ đó mà nhân dân và quan, quân Triều thần Chân Lạp tin tưởng, luôn giúp đỡ Lê Đại Cương và ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
* Giữ gìn Quốc phòng - An ninh biên giới
Tổng đốc An Hà Lê Đại Cương trước khi nhận nhiệm vụ về Nam Kỳ đã được vua đích thân vời gọi, dặn dò trong đó có việc giữ gìn QP-AN và biên giới. Đây là một trọng trách vô cùng nặng nề của ông trước quốc gia, dân tộc, với nhân dân.
Hiểu và nhận thức được tầm quan trọng này, trong suy nghĩ và hành động của ông luôn trăn trở làm sao cho “quốc thái, dân an” trong khi Nam Kỳ Lục tỉnh luôn bị quân xâm lược Xiêm rắp tâm thôn tính, cùng với lực lượng nổi dậy chống vua Phiên (Chân Lạp), bọn phản loạn trong nước...Trước tình thế khó khăn này đã đặt ra cho ông bài toán khó, phải chọn lựa nhiều cách hóa giải. Với bản lĩnh, ý chí và nghị lực của mình Lê Đại Cương đã chứng tỏ một vị Tướng nhà Nho uyên sâu chiến thuật, chiến lược và tất cả đều xuất phát từ quyền lợi, từ cái gốc của nhân dân mà ông làm, có thể bản thân mang tội với Triều đình, thậm chí hy sinh cả tính mạng...nhưng ông vẫn quyết tâm làm theo những gì mà Lê Đại Cương cho là chính đáng, là chân chính, với ông biên giới là bất khả xâm phạm, và ông luôn nêu cao việc xem xét đo đắn hình thế, nên làm, hay dừng lại chờ đại binh, thì lập tức “nên giữ vững cương giới, chiêu tập nhân dân để trước hết nắm lấy cái thế tất thắng”. Có lúc, Tổng đốc Lê Đại Cương đánh nhau với giặc bị thua, rút về tỉnh lỵ (tức là đồn bảo Châu Đốc), quân đều tan tác cả, bèn thương lượng giao cho Bố chính Nguyễn Văn Bỉnh cùng với Lý vẫn cứ ở lại phòng hộ, còn mình thì đi Nam Vang, điều động lính Phiên đến cứu”[ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.707]. Thái Công Triều (tướng quân thuộc quyền Lê Văn Khôi còn ở An Giang, mưu toan việc quy thuận nên đã mật báo cho Lê Đại Cương chóng đem quân về tiếp ứng Bùi Văn Lý ẩn ở đồn Vĩnh Hùng…Lê Đại Cương cũng từ Chế Lăng quay về, trước hết đem chém Trần Hiệu Trung và các tên phạm là đầu mục giặc mà sau đó tiếp tục bắt được. Rồi quyền phái Binh bộ Chủ sự thừa biện Nam Vang thành biên vụ là Hồ Công Chỉ và Phó quản cơ cơ An Giang là Nguyễn Văn Tây đến tỉnh Hà Tiên làm công việc ở tỉnh. Lại cho rằng Mạc Công Du vốn được nhân dân xứ ấy mến phục, bèn tạm quyền lưu lại ở tỉnh lỵ để trấn tĩnh (nhân tâm)”[ ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.708]. Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lại tâu: “Tỉnh An Giang mới lập, đất rộng, người ít, lại ở vào nơi xung yếu giữa hai ngả đường Hà Tiên - Nam Vang, binh lửa mới yên, thành trì chưa vững, công việc chính là lúc đương bận rộn. Vậy mà các cơ binh thuộc tỉnh, phần nhiều bỏ trốn, hiện số không còn được bao nhiêu, sợ khi động đụng không đủ người. Những lính đồn điền khi trước, dồn lại thành đội ngũ, cho lệ thuộc hạt khác như hai cơ Định thắng Tả, Hữu và Thủy cơ Biên Hòa, đều là người thổ trước trong hạt (An Giang). Nay xin rút về cho theo tỉnh sai phái để tự phòng thủ lấy”. Vua phê: “Đó cũng là việc cần kíp trước mắt. Cho làm theo điều thỉnh cầu” [ĐNTL, Tập Bốn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.134].
Để giữ gìn an ninh tốt hơn, Lê Đại Cương cùng Nguyễn Văn Quế xin triều đình cho thêm Kinh binh, nhưng vua không cho.“Tổng đốc An - Biên Nguyễn Văn Quế, Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương cùng ký tâu lên nói: “Hai tỉnh Phiên An, An Giang, nơi thì xe thuyền tụ họp, nơi thì địa thế xung yếu, cần phải có nhiều quân để đóng giữ. Thế mà cơ binh thuộc tỉnh phần nhiều chưa tập luyện thành thạo! Vậy xin lượng cấp cho mỗi tỉnh 1 vệ Kinh binh đến thú, mỗi năm một lần thay đổi, để lúc hoãn lúc cấp có quân nanh vuốt giúp đỡ”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.466].
Với một Tổng đốc nơi vùng biên cương, ông luôn suy nghĩ làm cho quân dưới trướng của ông có đủ bản lĩnh; nên ông luôn chấn chỉnh quân đội, huấn luyện quân sĩ và nghiêm chấp quan, lính dưới quyền không được làm một chút gì khó chịu phiền lụy để cho sức quân có thừa, thao diễn thành thục, chuẩn bị để dùng trong lúc có việc, Tổng đốc Lê Đại Cương, khéo xử trí, vừa khoan dung vừa nghiêm ngặt khiến binh lính vui vẻ phát huy sở trường, phấn khích hăng say luyện binh. Ông đã tâu vua “xin dồn bổ các lính ở đồn điền cũ vào 4 cơ thuộc tỉnh là An nghị tả, An nghị hữu, An nghị tiền và An nghị hậu, đặt mỗi cơ 1 Phó quản cơ, lấy các nguyên Chánh phó trưởng chi bổ làm Cai đội thí sai, Phó quản cơ. Vua y cho” [Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.532].
Lê Đại cương rất rõ ràng, rành mạch thưởng, phạt nghiêm minh trong công việc như: Tháng 3 năm 1833, Lê Đại Cương đề nghị vua cho Hồ Công Chỉ lĩnh chức Chủ sự Bộ Binh: “Cho Tư vụ thự Chủ sự là Hồ Công Chỉ làm Chủ sự bộ Binh, theo Tổng đốc và Tuần phủ An - Hà kiêm lĩnh Bảo hộ là Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân làm việc công thành Nam Vang. Hồ Công Chỉ, trước đây do chức thự Tư vụ làm việc ở Binh tào thành Gia Định cũ, nhân việc đưa người Xiêm gặp nạn về nước, do thám được tình hình nước ấy, biên chép rõ ràng. Vua sai vời về Kinh, hỏi lại. Chỉ tấu đối rất tường tận. Vua khen, liền cho thực thụ Tư vụ, thự Chủ sự và thưởng 15 lạng bạc. Đến bấy giờ lũ Lê Đại Cương cho Chỉ là người lanh lẹn, được việc lại am hiểu tình hình biên giới, xin bổ chức ấy. Vua y cho”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.487].
Tháng 8 - 1833, Lê Đại Cương bị vua cách chức, từ Tổng đốc An Hà xuống làm lính, Ông đã tự chiêu tập binh mã, tự huấn luyện, hình thành đội quân hùng mạnh, rèn binh sĩ trở thành những lính chiến thực sự. Sau ông đã góp công lớn cùng Trương Minh Giảng đại phá được quân Xiêm ra khỏi bờ cõi và dẹp được quân nổi loạn Lê Văn Khôi.
Lê Đại Cương, bậc đại trượng phu quân tử dù ở đâu, làm việc gì, từ Một dõng tướng trở thành một người lính, ông càng hiểu rõ hơn về vị trí của người lính ở biên đầu tổ quốc; ý chí và trách nhiệm càng cao hơn; yêu thương những người bạn lính hơn. Nhân sinh quan của ông rộng mở hơn, nên ông rất mực yêu thường đồng đội, những người lính mai đây mai đó, đi đầu trong cuộc chiến tên bay, giáo nhọn...nhưng ở họ là lòng yêu nhân dân, yêu đất nước hơn bao giờ hết. Ở đó là bài học trường đời và làm người cho ông, để ông so sánh giữa kinh sách và thực tế, từ đó vận dụng cho cuộc sống thăng hoa, vượt qua mọi khó khăn, số phận để làm một “công dân tử tế” tay gươm, tay mềm mại bút hoa, khó nhọc vẫn làm thơ, thưởng thức cung đàn...với một tâm hồn nghệ sỹ - chiến sỹ.
* Một tấm lòng trung trinh với dân, với nước
Khi thua trận với Lê Văn Khôi chiếm được Tỉnh thành  Định Tường. “Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương ở Định Tường nghe tin, lập tức dẫn đại đội binh thuyền lui về phía sông Ba Lầy (thuộc huyện Kiến Đăng, giáp đầu tỉnh An Giang). Binh và dân giữ Định Tường, đều xao xuyến, chạy trốn đến hết”[Đại Nam thực lục, Tập Ba, sđd, tr.625]. Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo đều làm sớ tâu vua xin chịu tội. Việc xin chịu tội này của ông, ông biết là có thể bị xử vào tội chết, nhưng ông vẫn hiên ngang, đối mặt với sự thật, không tránh né, đổ thừa. Dám làm, dám chịu; mà ở đây còn thể hiện tấm lòng thương dân, thương những người lính vào sinh ra tử cùng ông, không để họ chết oan khi lực lượng mình yếu, thế giặc đang lên, thì việc chịu tội với triều đình không phải bàn cãi nữa, mà ông nguyện xin làm?
Tháng 9 -1833, Bình khấu đạo Tướng quân là Trần Văn Năng, Tham tán là Lê Đăng Doanh ở quân thứ Gia Định tâu xin:“Tạm quyền cấp cho viên quan bị cách là Lê Đại Cương vẫn quản lĩnh binh dõng dưới quyền được ở trong quân để đua sức làm việc”. Vua ưng cho”[ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.755].
Tháng 10 -1833, Lê Đại Cương tiếp tục bị vua quở trách do: “Khâm phái Hộ bộ Tả thị lang Đặng Chương từ quân thứ Gia Định về Kinh tâu:“Đồ đảng giặc trong thành, ngày nọ, có họp thành đến hơn 100 tên, đi ra ngoài thành, tìm kiếm vật liệu. Binh dõng do Lê Đại Cương đốc suất ở địa phận tấn sở chỉ chém được 1 đầu và đâm bị thương 5, 6 đứa mà thôi” [ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.845], nên “Lê Đại Cương, Vũ Phi Giám có nhiệm vụ chia giữ đồn tấn đều bị giáng 2 cấp”[ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.852]. Tháng 12 năm 1833, lời Dụ của vua Minh Mạng đề cập đến việc dẹp đánh dẹp Lê Văn Khôi, trong đó cho biết, Lê Đại Cương đã được gia ơn và phục chức: “Thái Công Triều và Lê Đại Cương đã được gia ơn khai phục và nhiệm dụng rồi”[ĐNTL, Tập Ba, sđd, tr.945].
Sau này, tháng Giêng năm 1838, việc giặc cướp mất lương thực, vũ khí ở Ca Thi, thuộc đạo Hải Đông biền binh gián hoặc có người bị thương, bị chết.. Vua truyền Chỉ quở mắng Lê Đại Cương và Trương Minh Giảng. [ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr.238-239.]. Cũng trong thời gian này, Lê Đại Cương bị cách hoàn toàn quan chức cho làm thuộc viên thành Trấn Tây. ĐNTL chép: “Lê Đại Cương trước làm Tổng đốc An Hà, có tội bị cách nhiều lần, được khởi phục đến chức Tuần phủ An Giang, lại uỷ cho giữ chức Tham tán ở Trấn Tây, long trọng biết là chừng nào? Chính phải trình bày mưu mô để chuộc lỗi trước. Thế mà từ trước đến nay, ở thành đã lâu ngày, mà công việc ở ngoài biên, nên chăng chỉ theo người. Nay dân Man không yên, quấy rối ở biên giới, lại sợ việc, sợ khó nhọc, rụt cổ ở trong thành, nhiều lần tâu báo, chỉ cốt bàn suông, không từng đánh bắt một lần nào, ốm yếu không tài như thế, hầu dùng hắn làm gì, nếu cho dời khỏi chức về Kinh thì là để mình ra ngoài việc, lại là đắc sách, chuẩn cho cách chức, cho làm thuộc viên thành Trấn Tây, phái đi theo quân thứ ở Hải Đông làm việc chuộc tội“[ĐNTL, Tập Năm, sđd, tr. 259.]. Tháng 3 năm 1838, Lê Đại Cương còn bị vua ra lệnh bắt xích ngay giải về Kinh, giao cho bộ Hình nghiêm nghị. Với lý do: “Lê Đại Cương xuất thân hèn mọn, không có công lao, đã từng cất làm Tổng đốc An - Hà, ơn nước sâu nặng biết bao.... Không ngờ một kẻ già yếu không có tài, lại dám trên không sợ phép nước, dưới không nghĩ công luận, quá đến như thế, nếu không trị tội sao tỏ được hình pháp. Lê Đại Cương phải bắt xích ngay giải về Kinh, giao cho bộ Hình nghiêm nghị” [ĐNTL,Tập Năm, sđd, tr.298.]. Lê Đại Cương sau phải tội “chém giam hậu”.
2.3. Một vài đánh giá
Với các tội vua gán cho: “Nay dân Man không yên, quấy rối ở biên giới, lại sợ việc, sợ khó nhọc, rụt cổ ở trong thành, nhiều lần tâu báo, chỉ cốt bàn suông, không từng đánh bắt một lần nào” và “Lê Đại Cương xuất thân hèn mọn, không có công lao,... Không ngờ một kẻ già yếu không có tài, lại dám trên không sợ phép nước, dưới không nghĩ công luận..”. Ông bị khép vào tội “Khi quân” khi chỉ là lính mà được gọi là “Đại tướng” việc ông huấn luyện binh lính. Trước một thực tế nhiễu nhương, ông không một lời oán than, thanh minh mà luôn “vơ tội” vào mình; khi ông nhận thấy chính sách không phù hợp của nhà Nguyễn với người thiểu số, đặc biệt là người Khmer và chính sách đối ngoại với vương quốc Chân Lạp cũng gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình, như các cuộc nổi dậy Lâm Sâm (Ba Xuyên), Thất Sơn (An Giang), Hà Tiên (Kiên Giang) và Trà Vinh...lúc bấy giờ; cho nên: “nhiều lần tâu báo, chỉ cốt bàn suông, không từng đánh bắt một lần nào..”? Không phải ông sợ chết, mà lương tâm ông còn trăn trở, day dứt...thà làm một người lính xung trận và ông đã làm tốt điều này. Và đau đớn hơn khi vua không cần thì cho ông một kẻ “xuất thân hèn mọn, không có công lao..”?; mà thực tế 40 năm trong sự nghiệp cả thảy 20 lần được phong cấp. 7 lần bị kỷ luật, 1 lần hàm oan được giải. Sự nghiệp ông bể dâu khôn lường; nhưng ông vẫn khẳng khái chấp nhận. Việc chấp nhận ấy là có chủ đích, làm cho triều đình nhà Nguyễn, nhất là vua rõ hơn với thực tại, nhưng để “trong ấm, ngoài êm” cách tốt nhất của người Đại trượng phu quân tử là im lặng, làm theo cách riêng của mình và ông đã làm được. Nếu sự hy sinh của ông được cảnh báo cho triều thần thì quả là không vô ích? Hoặc chỉ được những con người chân chính làm theo là đã thắng lợi...
Trước sự mất trắng sự nghiệp, công danh và cái giá “chém giam hậu” luôn trực chờ, nhưng ông không hề nao núng tinh thần, trong gian nao vất vả vẫn là một nghệ sỹ tài hoa, ngâm thơ, thưởng trăng uống rượu, đàn ca...phải chăng cái chất tài tử đó đã hòa nhập vào vị “Tướng - Quân” này, làm cho đời thêm hào hoa, phong nhã, đáng yêu mặc cái chết luôn rình rập. Đấy là bản lĩnh của con người chân chính. Lê Đại Cương sống trong lòng nhân dân chứ không sống trong lòng vua; Lê Đại Cương xả thân vì nước, vì dân chứ không phải vì vua; Và ông luôn một lòng trung trinh với dân, với nước với tất cả một tấm lòng yêu dân, yêu nước vô hạn.
Bên cạnh công lao khai hoang mở cõi, xây dựng An Giang & Nam Kỳ, bản thân Lê Đại Cương cùng các bậc tiền bối còn đổ mồ hôi, thậm chí cả máu, xương để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm. Chính điều này cũng là một trong những lý do để ông nhậm chức: “Bảo hộ Chân Lạp quốc”. 
Việc “Bảo hộ Chân Lạp” là một chiến lược phòng thủ đất nước từ xa, Minh Mạng cho quân sang tận Nam Vang (Phnompenh), bắt vua Chân Lạp là Nặc Ông, đổi Chân Lạp thành Trấn Tây để cai quản... Vấn đề này khá nhạy cảm, lại thêm tư chất thông minh hơn người của Lê Đại Cương một con người am hiểu văn hóa, tộc người và nhất là với dân tộc Khmer Cam Phu Chia, nên ông luôn trăn trở “trên đe, dưới búa” với việc làm trái lời Vua Nguyễn Ánh trước khi mất đã di chiếu lại rằng: “Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi. Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên”. Từ nguyên nhân này cũng định hình cho ông cách xử sự với nhân dân, quan, quân Chân Lạp một cách mềm dẻo, khôn ngoan, hơn và trên tất cả là tình yêu thương con người. Chính vì thế mà trong mọi việc đối với Chân lạp ông suy nghĩ chín chắn trước khi ra quyết định; Tháng 7 -1835, Quan tỉnh Hà Tiên tâu nói: “Trong tỉnh có 1 đoạn ven biển, đông từ Dương Đà, tây đến sông Trà Diên thuộc phủ Chân Chiêm tỉnh An Giang, xen vào khoảng giữa hai huyện Hà Châu và Kiên Giang. Vậy xin đổi thuộc về Kiên Giang cho địa thế được liền nhau”. Vua sai Tổng đốc Trương Minh Giảng và Tuần phủ Lê Đại Cương bàn cho ổn thoả. Họ cho rằng hạt phủ Chân Chiêm ở vào khoảng giữa đông tây sông Vĩnh Tế, bắc giáp huyện Tây Xuyên tỉnh An Giang, nam giáp tỉnh Biên Hoà, kéo dài đến bãi biển. Công việc quan tuy theo về An Giang, nhưng binh, dân, thuế khoá và những việc đốc suất, vỗ về, vẫn đều còn do Chân Lạp phân phát điều khiển. Vả, triều đình sửa sang bờ cõi, cốt nhằm vào những điều rộng lớn sâu xa. Nay giặc ngoài biên mới yên, nhân tâm vừa được ổn định. Các việc lớn, hãy tính xếp đặt dần dần. Chỗ đất nhỏ mọn kia không quan trọng lắm, chưa nên vội vàng sắn lấy. Huống chi, đất Phiên đã thuộc bản đồ của ta, tuy đường có cách biệt, nhưng thực vẫn liền nhau. Tỉnh Biên Hoà có Chân Chiêm cũng như tỉnh An Giang có Ba Thắc. Vậy, dải đất ấy hãy cứ để cho quan Phiên vỗ yên cai quản như cũ, đợi khi có dịp bàn công việc thiện hậu, bấy giờ sẽ làm một thể”. Vua phê bảo rằng: “Những lời bàn luận chính đại quang minh rất biết đại thể, nên theo lời nghị đó mà làm”[ĐNTL, Tập Bốn, sđd, tr.708-709.]
Tuy nhiên, việc phòng ngự địa đầu biên giới theo ông: thực không nên trễ nải, phải luôn đề phòng ngoại bang, nước Xiêm vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Xiêm vẫn tìm cơ hội phối hợp cùng phe nổi dậy bên Chân Lạp tràn vào để quấy rối Việt Nam, và cách tốt nhất theo ông là phòng thủ tốt tại đất mình. Từ nhận thức này trong hành trang của ông, ông dự đoán rất xa và thực thi như phát triển kinh tế - xã hội, mở mang giao thương, chú ý mọi vấn đề xã hội đặt ra và nhất là phòng thủ quốc phòng, an ninh được đề cao cảnh giác và phát triển thực lực, qua rèn binh, đào thêm kênh, sông...tại An - Hà và vùng Nam Kỳ.
Lê Đại Cương đã để lại những dấu ấn trên đất An Giang & Nam Kỳ khá đậm nét với vai trò Tổng đốc và kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc” và ngay cả sau này khi ông không còn tước vị gì, bị vua khép tội “chém giam hậu” vẫn thấy ở ông một tinh thần ngoan cường, cương trực như tính cách của người Nam Bộ. Những con người “khai thiên lập địa” cùng ông nặng lòng với non sông, đất nước “Khai hoang, mở cõi”, những con người luôn “Trọng nghĩa, khinh tài” và coi trọng tình nghĩa, mà trong thời gian ông về An Giang & Nam Kỳ đã tiếp thu được và phát huy tính cách bộc trực, khẳng khái lên tầm cao mới, kết hợp với Đạo Phật, vi vô của Lão Tử, Khổng Tử...Nho Giáo. Để có sự “giác ngộ” uyên thâm, hài hòa như ông từng có.
3. Kết luận:
Lê Đại Cương một con người sống và làm việc đều mang ý chí, quyết tâm cao và làm những việc gì mà ông cho là chính đáng, có lợi cho dân, cho nước. Qua sự nghiệp của ông trên mảnh đất An Giang nói riêng và Nam Kỳ nói chung và còn có nhiều năm lĩnh ấn bảo hộ Trấn Tây (Chân Lạp), có thể thấy Lê Đại Cương quả là trang tuấn kiệt, có khí phách và nghị lực phi thường, cộng với sự hiểu biết đến tường tận và sự thích nghi, làm chủ tình hình tuyệt vời hiểu lẽ “xuất” - “xử” và biết “xuất” - “xử” của người quân tử có cái “Tâm” trong sang, một nhân cách lớn, một bản lĩnh kẻ sĩ cao đẹp. Đó là con người trọn đời coi thường lợi danh, phú quý không thể cám dỗ, nghèo khó không làm thay đổi, uy vũ không thể khuất phục, khi gặp thời thành công không đắc chí, lúc sa cơ thất bại không nản lòng, biết đứng dậy từ nơi vấp ngã.
Khi đắc thời quyền cao chức trọng hay lúc thất thế bị giáng  xuống làm lính khiêng võng hay lính chiến tiên phong với quá nhiều bất trắc hiểm nguy, quá nhiều thử thách sống còn, chính nhân cách ấy, bản lĩnh ấy đã giúp ông vượt qua tất cả, để làm được những việc ích cho nước, lợi cho dân. Lê Đại Cương luôn là một tấm gương sáng của một kẻ sĩ  tận tụy vì dân vì nước, xử lý khéo léo, theo triết lý Nhà Phật, cộng với Nho giáo, Đạo Lão, Khổng sao cho trên thuận, dưới cốt  an dân luôn làm điều tốt, điều lợi cho dân, cho nước, được trọng thưởng không tự mãn, bị thụ án chẳng trách hờn mà coi đó là sự thử thách, sức lực của mình. Ông được người  đương thời và hậu thế ngưỡng mộ không chỉ vì những huân công ông đã lập được mà còn vì nhân cách lớn, chí khí hiên ngang, nghị lực kiên cường tiêu biểu cho phẩm chất sáng ngời của kẻ sĩ, mang đậm nét những đặc trưng tính cách Nam Bộ: “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện bất năng di; uy vũ bất năng khuất” luôn trọng nghĩa, trọng tình.


Nguồn: vanhien.vn
_______________________
Tài liệu tham khảo
  1. Cao Xuân Dục: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb Thuận Hóa - Huế, 1998,
  2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.Một, Nxb.Giáo dục, H, 2002. Đại Nam thực lục, T.Hai, T.Ba, Nxb.Giáo dục, H, 2004.  Đại Nam thực lục, T. Bốn, T. Năm, T.Sáu, Nxb.Giáo dục, H, 2007.
  3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Tập 3: Chính biên-nhị tập, Viện Sử học, Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2005.
  4. Lê Đại Cương và Lê Thị gia phả, Nxb.Dân trí, 2011. bản dịch Vũ Ngọc Liễn
  5. Theo Trần Ngọc Vương- “Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn học VN”-Nxb Giáo dục, 1995.
  6. Nguyễn Minh Tường, Suy nghĩ về hành trạng, sự nghiệp của Danh nhân Lê Đại Cương, Viện sử học. (Trong Lê Đại Cương Tham luận 1).
  7. Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược 2, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục
  8. Trang Google - Nguyễn Anh Tuấn Nho tướng Lê Đại Cương và Bí truyền qua một cuốn gia phả, tháng 11 năm 2012.

CÔNG LAO ĐÓNG GÓP VỀ QUÂN SỰ CỦA TỔNG ĐỐC AN - HÀ LÊ ĐẠI CƯƠNG

Tác giả: ThS. Dương Thị Ngọc Thu, Học viện Chính trị khu vực IV.


Lê Đại Cương là một danh sĩ văn võ song toàn; một nhân vật trí tuệ xuất chúng và đa tài. Cuộc đời làm quan của ông đã đóng góp trên nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao,… nhưng nổi bật là về quân sự.
Tượng thờ cúng Lê Đại Cang (hay còn gọi là Lê Đại Cương) tại quê hương ông làng Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước (Bình Định)
Sự nghiệp quân sự của ông khi làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “bảo hộ Chân Lạp quốc” cũng gặp nhiều thăng trầm, vinh quang, cay đắng. Ông từng được phong thưởng quan tước nhiều lần, nhưng cũng nhiều lần bị cách chức. Có lúc Ông được phong làm Tổng đốc, Bố chánh sứ An Giang, Trấn Tây Tham tán Đại thần,… Có lúc bị cách chức xuống làm “đoái tỳ binh võng tiền quân hiệu lực” (khi xông trận phải luôn là quân đi đầu để lập công chuộc tội) và bị cách, phái theo quân thứ Hải Đông hiệu lực. Tuy bị cách chức nhưng không nãn lòng, Ông đã tập hợp tàn quân, tuyển thêm binh lính xây dựng một đội quân mạnh phối hợp với viện binh triều đình đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi. Ông cũng có công lớn trong việc đánh đuổi quân Xiêm, loạn đảng người Cao Miên bảo vệ vùng đất An Giang nói riêng vùng biên giới phía Nam nói chung.
Nhâm Thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), tháng 11, “Dùng nguyên Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Lê Đại Cương làm Tổng đốc An - Hà, kiêm lĩnh ấn “bảo hộ Chân Lạp quốc”. Đại Cương đến trước bệ, bái biệt. Vua gọi đến trước mặt dụ rằng: “An Giang là tỉnh mới đặt, trong thì trấn thủ, vỗ về nước Phiên (đây chỉ nước Chân Lạp), ngoài thì khống chế nước Xiêm, sự thể rất quan trọng. Ngươi nay cai trị đất ấy, phàm những việc quân, dân, trọng đại cùng thành trì và kho tàng đều nên hết sức lo liệu để phu phỉ ý ta mong ngươi làm được thành công”[1]. Như vậy, Vua đã giao cho Ông giữ chức Tổng đốc An - Hà, kiêm lĩnh ấn “bảo hộ Chân Lạp quốc” là công việc vô cùng trọng đại để bảo vệ vùng biên giới phía Nam.
Quý Tỵ, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), tháng giêng, Để giữ gìn an ninh tốt hơn, Lê Đại Cương cùng Nguyễn Văn Quế xin triều đình cho thêm kinh binh. “Tổng đốc An -Biên Nguyễn Văn Quế, Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương cùng ký tâu lên nói: “Hai tỉnh Phiên An, An Giang, nơi thì xe thuyền tụ họp, nơi thì địa thế xung yếu, cần phải có nhiều quân để đóng giữ. Thế mà cơ binh thuộc tỉnh phần nhiều chưa tập luyện thành thạo! Vậy xin lượng cấp cho mỗi tỉnh 1 vệ Kinh binh đến thú, mỗi năm một lần thay đổi, để lúc hoãn lúc cấp có quân nanh vuốt giúp đỡ”. Vua dụ bảo: “Sau này, nếu cần phái thêm quân đến thì ta sẽ ban chỉ điều khiển ngay, nào có muộn gì”[2].
Tháng 3, Lê Đại Cương tiến cử với Vua cho Hồ Công Chỉ lĩnh chức Chủ sự Bộ Binh. Vua cho và khen thưởng ông là người lanh lẹn, được việc lại hiểu tình hình biên giới. “Cho Tư vụ thự Chủ sự là Hồ Công Chỉ làm Chủ sự Bộ Binh, theo Tổng đốc và Tuần phủ An - Hà Lê kiêm lĩnh bảo hộ là Đại Cương và Ngô Bá Nhân làm việc công thành Nam Vang. Hồ Công Chỉ trước đây do chức thự Tư vụ làm việc ở Binh tào thành Gia Định cũ, nhân việc đưa người Xiêm gặp nạn về nước, do thám được tình hình nước ấy, biên chép rõ ràng”[3].
Tổng đốc An - Hà, kiêm lĩnh bảo hộ Lê Đại Cương và Ngô Bá Nhân tâu nói: “Bọn Thiều Ma là bộ thuộc của thần Ốc Nha Cố ở nước Chân Lạp từ ở Bắc Tầm Bôn trốn về, bị người xét hỏi bắt được, nó nói: Nghe nói tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri, đem 3000 quân ra Sốc Châm Nặc gần địa giới Bắc Tầm Bôn”. Bây giờ nhân dịp Chân Lạp có tiết thưởng xuân, thần đã phái quân thuyền đi trấn áp rồi”[4].
Tổng đốc An - Hà, Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang và Ngô Bá Nhân tâu nói: “Ốc Nha Bồ Nô Sơn Liêm Mộc ở phủ Chân Niêm, chiêu mộ được 10 đội quân Phiên, xin đặt cho tên cơ binh, ban chức hàm và họ tên, đợi sau khi tỉnh thành dời đi nơi khác, sẽ cho cứ đóng giữ đồn Châu Đốc”. Vua ưng cho…“Đại Cương lại xin trích lấy 50 người là lính trong 3 đội Cường bộ, An bộ và Hùng bộ trước đây để đặt dưới quyền sai phái của vua Chân Lạp (3 đội đều là người Kinh, năm trước nước Chân Lạp mộ làm lính ứng trực chạy trạm; gần đây, dồn làm 3 đội Ngũ, Lục, Thất thuộc cơ An Giang). Vua cho rằng 3 đội quân ây số ghạch còn thiếu; xuống mộ sai dụ them cho đủ số, rồi sai 2 đội cho vua Phiên, còn một đội để lại ở tỉnh, rồi châm chước cho thay phiên nhau. Ngạch lính vẫn thuộc trong số quân cơ An Giang”[5].
Cũng trong tháng 3, Theo tin thám được Ông nghi là quân Xiêm định tiến đánh nên phái binh đến thành Nam Vang trấn áp. Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương tâu nói: “Quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân báo rằng thám thấy tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri đóng quân ở Sóc Tà Nặc, đưa hịch hiệu triệu dân phủ Bắc Tầm Bôn, cùng với Ốc Nha Cố phân phái việc quân. Hắn lại sai đắp đồn ở phủ Lô Khu Vật. Thần lấy làm ngờ lắm, đã phái 300 biền quân đến thành Nam Vang trấn áp, để cho yên lòng thần dân nước Phiên”. Vua phê bảo rằng: “tình hình Chân Lạp do thám được chưa chắc đã thực. Ngươi chịu trọng trách ở biên khổ, phải xem xét cho kỹ, tùy cơ điều khiển thế nào, cốt cho trúng khớp. Nếu có thực, lập tức tâu lên”[6].
Tháng 4, Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu xin dồn bổ các lính ở đồn điền cũ vào 4 cơ thuộc tỉnh là An nghị tả, An nghị hữu, An nghị tiền, An nghị hậu, đặt mỗi cơ 1 phó quản cơ, lấy các nguyên Chánh phó trưởng chi bổ làm Cai đội thí sai, Phó quản cơ. Vua y cho”[7].
Tháng 5, Lê Đại Cương đề phòng biên giới bị xâm lược nên ông lo xây đắp thành tỉnh An Giang và lấy đồn làm phủ lỵ để được hùng tráng. “Nay công việc làm thành tuy mới tạm ổn, nhưng thế cục đã thành, cơ chỉ đã định. Phàm đường lối trong ngoài ra vào cùng với chợ búa, phố xá đều đã dự vạch ra trước, để cho người ta biết đến đấy ở, sớm thành nơi vui vẻ. nếu lại trở về Châu Đốc, sợ rằng dân mới tụ hợp sẽ lại tản mát nơi khác. Thần đã đem số tre chặt rồi rào giậu bốn mặt, tạm làm cái thành bằng tre, và tạm thời dựng nhà kho, công đường và nhà làm việc để tiện cho việc dọn đến ở. Còn toà hành cung dựng ở Châu Đốc trước, thì gỗ xà lim còn dùng được, nên dỡ mang về Tân Thành để xây dựng. Lại nữa, huyện Tây Xuyên là kiêm lý của phú Tuy Biên, chính Châu Đốc ở trong đại hạt ấy. Vậy, xin lấy đồn ấy dùng làm phủ lỵ để cho sự ở được hùng tráng. Vua đều nghe theo”[8].
Tháng 6, Nhà vua ra lệnh cho Lê Đại Cương hợp sức đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi: “Truyền dụ Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương lập tức xét theo số binh và dân hiện đang làm việc xây thành, cấp cho khí giới, tiền, lương, vát lấy nhiều thuyền, đốc thúc quan quân, hương dõng thuận dòng, xuôi xuống, hội với quan quân Long - Tường cùng đi đánh dẹp. Rồi, nhà vua còn cấp cho Lê Đại Cương kính thiên lý: “Sai thị vệ mang cấp cho Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương và Lê Phúc Bảo mỗi người 1 chiếc thiên lý kính”[9].
Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương, tâu nói: “Khi mới nghe tin Phiên An có giặc gây biến, thần đã phái Lãnh binh Lê Văn Tường đem binh thuyền hội với quan quân 2 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường tiến đánh. Sau đó hỏi ra biết rằng tướng giặc là Lê Văn Khôi tụ họp bè đảng, chiếm giữ tỉnh thành, giết hại Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nguyên, thần trước đã phi tư cho thự bọn ấy nhân khi sơ hở, lén lút trổi dậy, một khi có quân đến đánh, thế tất phải do đường rừng tìm về đất cũ, hoặc nhân Phiên An có nhiều thuyền, sẽ do đường biển lủi trốn. Thần lại phi tư cho hai tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, tỉnh nào cũng ngăn chặn các đường thủy bộ hiểm yếu. Lại sợ phía đầu rừng đạo Quang Hóa, cả Nam lẫn Bắc đều đi qua được, nên nghĩ cũng phi sức cho viên quản đạo Quang Hóa nghiêm chặn lối ấy. Rồi liệu gọi các biền binh ở hạt lân cận đang hạ ban nghỉ ngơi, ủy cho đóng giữ Tân Thành và theo 2 ty Bố, Án, giữ đồn Châu Đốc. Lịa phi sức cho Hà Tiên cũng phòng bị sẵn. Rồi chính mình đem Phó lãnh binh Vũ Văn Thường dẫn đại đội binh thuyền đến gần tiếp ứng” Vua phê bảo rằng: “Nhận được sớ tấu, ta biết ngươi đã có chuẩn bị trước và đem quân đi đánh dẹp, cơ hội chính là hay. Ta ngày ngày mong tin thắng trận”[10].
Quân của Lê Văn Khôi chiếm được tỉnh thành Định Tường “Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương ở Định Tường nghe tin, lập tức dẫn đại đội binh thuyền lui về phía song Ba Lầy (thuộc huyện Kiến Đăng, giáp đầu tỉnh An Giang). Binh và dân giữ Định Tường, đều xao xuyến, chạy trốn hết. Phúc Bảo ngồi một chiếc thuyền, lui đậu ở bến sông ngoài thành, bị quân giặc đuổi đến bức bách phải chạy về Vĩnh Long trước”. “Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo đều làm tớ tâu xin chịu tội”[11].
Tháng 8,“Giặc đã lấy được Định Tường, đốc suất thuyền quân tiến đến đậu ở sông Đồi Giang (thuộc tỉnh Vĩnh Long, giáp đầu địa giới An Giang), Tổng đốc Lê Đại Cương đánh nhau, bị thua, lui về An Giang”[12].
“Án sát tỉnh An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được hai tỉnh An Giang - Hà Tiên. Trước đây, Tổng đốc Lê Đại Cương đánh nhau với giặc bị thua, rút về tỉnh lỵ (tức là đồn bảo Châu Đốc) quân đều tan tác cả, bèn thương lượng giao cho Bố chính Nguyễn Văn Bỉnh cùng với Lý vẫn cứ ở lại phòng hộ, còn mình thì đi Nam Vang, điều động lính phiên đến cứu”. “Một mình Thái Công Triều còn ở An Giang, mưu toan việc quy thuận. Lại mật báo cho Lê Đại Cương chóng đem quân về tiếp ứng… Lê Đại Cương cũng từ Chế Lăng quay về, trước hết đem chém Trần Hiệu Trung và các tên phạm là đầu mục giặc mà sau đó tiếp tục bắt được. Rồi quyền phái Binh bộ Chủ sự thừa biện Nam Vang thành biên vụ là Hồ Công Chỉ và phó quản cơ cơ An Giang là Nguyễn Văn Tây đến tỉnh Hà Tiên làm công việc ở tỉnh. Lại cho rằng Mạc Công Du vốn được nhân dân xứ ấy mến phục, bèn tạm quyền lưu lại ở tỉnh lỵ để trấn tỉnh [nhân tâm]”[13]. Lê Văn Khôi chiếm cứ tỉnh thành và tiến đến giáp với tỉnh An Giang. Ông điều động binh thuyền chống cự ở vùng tiếp giới. Một đêm, binh sĩ tứ tán khó bề cố thủ. Ông cùng mấy mươi người tùy tùng lánh vào đất Chế Lăng của Cao Miên, chiêu tập thêm những dân sống lưu vong gần hai ngàn người hưởng ứng. Biến dân ô hợp thành quân đội chính quy, nuôi chí triêm cừu, sống như con em rồi thì theo đường Long Tường kéo binh về tỉnh An Giang. Đến hạt Gia Định giao chiến với giặc tại Lò Tư, đánh vào cẩm Đàm may gặp quân triều ở đấy. Giặc liều chết cố giữ thành, quân chia các nẻo tấn công vào những nơi chúng chiếm cứ.
Lê Đại Cương bị cách chức, từ Tổng đốc xuống làm lính đánh trận lập công. “Đến như Lê Đại Cương là một quan to, có nhiệm vụ giữ bờ cõi, trước đây, trận đánh ở Lật Giang, không tức thì đến cứu, lại dẫn quân về trước, đã là nhút nhát rồi. Đến khi quân giặc tới nơi, lại không cố chết giữ lấy thành trì, chỉ lo trốn xa, đến lúc nghe thấy người ta lấy lại được tỉnh lỵ, bấy giờ mới ló đầu ra! Xét dấu vết của hắn đã làm rất là ươn hèn đớn kém! Chuẩn cho lập tức cách chức, bắt làm lính ở nơi quân ngũ đua sức làm việc để chuộc tội; đợi khi việc yên rồi, sẽ xuống chỉ dụ quyết định”[14]. Thất bại và bị cách chức lần này Lê Đại Cương cho rằng: “Cuộc đời đã trãi qua của tôi chưa hề gặp sự gian hiểm như lúc này. Nhưng gánh nặng biên cương, sự thất bại ở góc trời Đông, để mất thành An Giang tội không nhẹ. Thánh chỉ đến cách chức tôi, nhưng cho“Đái lãnh binh dõng, quân tiền hiệu lực” (lãnh binh dõng ra trận phải đi trước lập công chuộc tội)”[15]. Bị cách chức lần này của ông cũng giống như Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ có lúc làm Tổng Đốc rồi bị cách tuột làm lính thú. Còn ông từ Tổng đốc bị cách, làm lính đánh trận lập công. Dù trong hoàn cảnh nào, ông vẫn không hề nản lòng trong nhiệm vụ phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân.
Tháng 9, Bình khấu đạo tướng quân là Trần Văn Năng, Tham tán là Lê Đăng Doanh ở quân thứ Gia Định tâu xin: “Tạm quyền cấp cho viên quan bị cách chức là Lê Đại Cương vẫn quản lĩnh binh võng dưới quyền được ở trong quân để đua sức làm việc. Vua ưng cho”[16].
Tháng 10, Lê Đại Cương bị Vua quở trách do Khâm phái Hộ bộ Tả thị lang Đặng Chương từ quân thứ Gia Định về Kinh tâu: “Đồ đảng giặc trong thành, ngày nọ có họp thành đến hơn 100 tên, đi ra ngoài thành, tìm kiếm vật liệu. Binh dõng do Lê Đại Cương đốc suất ở địa phận tấn sở chỉ chém được 1 đầu và đâm bị thương 5,6 đứa mà thôi”. “Vậy, truyền chỉ ban quở các Tướng quân và các Tham tán. Lại truyền chỉ nghiêm quở Lê Đại Cương: Từ nay bọn giặc còn dám đi ra, tất nên nghiêm sức cho các tướng, biền binh, đang ở các đồn tấn sở tại phải hết sức đón đánh, dẫu dưới làn tên đạn tơi bời cũng không quản ngại. Cốt sao giặc phải đến một đứa thì giết chết một đứa, không cho trốn thoát, tất có hậu thưởng. Nếu cứ bất lực mãi, dung túng cho giặc muốn đi đâu tùy ý thì khó trốn được lỗi ấy”[17].
Quân lính của Lê Văn Khôi liều chết ra khỏi thành chiến đấu, quan quân bắt và chém không được nhiều, mà mình lại bị thương và chết đến hơn trăm, thế là lợi bất cập hại! “Lê Đại Cương, Vũ Phi Giám có nhiệm vụ chia giữ đồn tấn đều bị gián 2 cấp”[18].
Tháng 12, lời dụ của Vua Minh Mạng đề cập đến việc dẹp đánh Lê Văn Khôi và cho biết Lê Đại Cương đã được gia ơn và phục chức “Thái Công Triều và Lê Đại Cương đã được gia ơn khai phục và nhận nhiệm dụng rồi”[19].
Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), tháng 3, Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang, phòng ngự địa đầu biên giới và tâu với Vua: “Tỉnh An Giang mới lập, đất rộng, người ít, lại ở vào nơi xung yếu giữa hai ngả đường Hà Tiên - Nam Vang, binh lửa mới yên, thành trì chưa vững, công việc chính là lúc đương bận rộn. Vậy mà các cơ binh thuộc tỉnh, phần nhiều bỏ trốn, hiện số không còn được bao nhiêu, sợ khi động đụng không đủ người. Những lính đồn điền khi trước, dồn lại thành đội ngũ, cho lệ thuộc hạt khác như hai cơ Định thắng Tả, Hữu và thủy cơ Biên Hòa, đều là người thổ trước trong hạt [An Giang]. Nay xin rút về cho theo tỉnh sai phái để tự phòng thủ lấy” Vua phê: “Đó cũng là việc cần kịp cho trước mắt. Cho làm theo điều thỉnh cầu”[20].
“Thự Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương mật tâu trù tính việc ngoài biên: Xin làm đồn trại nơi Nhu Viễn Đàng thành Nam Vang, phái quan binh trú thủ, làm kế giữ về sau. Lại từ đàng Quang Hóa trở lên giáp Cự Giang, nhiều chỗ không khoán cày được, nên cho những người Chàm (là người Chiêm Thành) bị tội đồ lưu lại xứ Ân Khu và xứ Xâm Bô tới ở đó khai khẩn. Ngài cho”[21].
Tháng 4, quân Xiêm lại động binh uy hiếp Chân Lạp, Lê Đại Cương tâu Vua xin đem quân đánh giữ. “Tổng đốc Trương Minh Giảng, thự phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang, tâu nói: Dân ta có người từ nước Xiêm trốn về, khi qua Biển Hồ, nghe tiếng súng gần Phủ Lật. Cứ theo chúng nói, thì người Xiêm quả đã động binh, muốn uy hiếp Chân Lạp. Bọn thần hiện đã chỉnh đốn binh thuyền tiến lên để tùy cơ đánh, giữ”[22].
Tháng 5, “Tổng đốc Trương Minh Giảng, Thự phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang tiến quân đến bến sông thuộc phủ Long Tôn. Giặc Xiêm, các đường thủy, bộ ở mật Vi Xà và Trúc Đồn (đầu đất Xiêm, tiếp giáp cuối địa giới Chân Lạp) nghe quân ta đến, đều bắn sung ra hiệu cho nhau rút lui. Bọn Giảng bèn liệu để lại 300 biền binh đóng vụng ở Xà Năng để làm thanh thế cho đồn Tịnh Biên. Lại sai người Phiên lập ở đấy một tấn sở lớn để phòng thủ. Rồi trở về Nam Vang, đem việc tâu lên”[23].
Tháng 6, Ông được thăng Tham tri bộ Binh, Tuần phủ An Giang, được Minh Mạng giao đưa Vua Cao Miên từ Việt Nam về nước, lưu lại Nam Vang lo việc bảo hộ Cao Miên. “Thăng Bố chính, thự lý Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương, lên làm Tham tri bộ binh, làm Tuần phủ An Giang”[24].
Tháng 7, Đốc, phủ quân thứ Nam Vang, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương tâu với Vua việc phòng giữ về sau, cả thảy 8 điều. Vua đều y cho. “1) Chia đặt quan phiên coi giữ những nơi trọng yếu. Chọn lấy người trội trong các quan Phiên. 2) Xem xét đất phiên thiết lập đồn trại. 3) Lựa lấy lính Phiên. 4) Lựa lấy thổ binh người Chàm. 5)Chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng cho nước Phiên. 6) Chiêu tập cơ binh An Biên. 7) Khám xét các thuyền buôn ở Quảng Biên. 8) Kinh lý biên phòng tỉnh Hà Tiên”[25].
Tháng 8, tiếp tục công việc ở Nam Vang: Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương tâu nói: “Nước Phiên mới bắt đầu sửa sang, công việc còn bề bộn. Hai phủ Quảng Biên, Khai Biên đã đặt án phủ sứ, nhưng chưa có lai lịch. Vậy xin đặt ty thừa biện ở thành Nam Vang, 1 chánh cửu phẩm thư lại và 10 vị nhập lưu thư lại, hợp hai phủ Quảng Biên, Khai Biên làm một nha, đặt 1 lại mục và 6 thông lại. Lại xin kế tiếp cấp lương tháng cho những hương dõng đóng giữ thành Nam Vang, đợi các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường và An Giang xong việc tuyển lính, sẽ tư đi lấy người thay đổi. Vua đều y theo”[26].
Tháng 11, “Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc, phủ ở quân thứ Nam Vang, tâu xin trích lấy những biền binh ở quân thứ Gia Định để đi đóng giữ An Giang và cho xuống thuyền, diễn tập thủy chiến; những cơ binh mới tuyển được lưu lại, đều cho kế tiếp cấp lương tháng. Vua dụ bảo: Về biền binh trú phòng, quân thứ Gia Định đã phái đi rồi; còn việc tập thủy chiến và việc giản binh lưu lại, điều chuẩn cho như lời đã xin, cốt nên để tâm xếp đặt, cho được chỉnh đốn, để vững mạnh việc biên phòng, xứng đáng với trách nhiệm đã giao cho”[27].
Tháng 12, “Vua Chân Lạp là Nặc Chân chết. Bọn Tổng đốc Trương Minh Giảng, Tuần phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang tâu lên. Vua dụ: Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương quyền làm việc nước Chân Lạp. Phàm những việc lớn như tổ chức binh phòng, cất đặt quan lại, đều phải bẩm rõ để xử trí, không được trái lệnh vượt quyền. Còn những việc nhỏ nhặt tầm thường, cho được hội bàn cùng các quan Phiên mà làm”[28].
 Ất Vị, năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), Chân Lạp được Vua Minh Mạng đổi làm Trấn Tây Thành chia ra phủ, huyện.
Tháng giêng, “Sai Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương hiệp cùng Tổng Đốc Trương Minh Giảng, kiêm lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp”[29].
Tháng 3, Quan bảo hộ ở thành Trấn Tây là Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương tâu: “Ở phía nam Cầm Bông Trắc Đà trông qua thấy phía bắc có binh Xiêm đi tuần, nghe vua Chân Lạp mất, Xiêm khiến ông Run đem 300 quân tới Vũng Cần  Sư đóng với người tướng nước Xiêm. Chúng thần thiết tưởng người Xiêm chưa dám làm gì, chẳng qua đem tên Nặc Ông Run làm mồi, dò xem người Chân Lạp thế nào mà thôi. Chúng thần đã sức tên Thi Kê phải phòng bị cho nghiêm ngặt, lại xét các quan Chân Lạp có tên Nhâm Vu là người siêng giỏi, sai phái đắc lực, xin cho nó qua hiệp với bọn Trà Long và La Kiên quyền giữ quốc ấn hội đồng coi việc Chân Lạp. Ngài cho”[30].
Tháng 6, “Lãnh chức bảo hộ là bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở thành Trấn Tây đem địa đồ thuộc thành và ngoài biên cương thành ấy dâng lên. Vua mở xem, thấy vẽ đường xá, hình thế, rõ rang dễ coi, ban khen. Chuẩn cho xét viên quan Phiên nào đã chỉ dẫn để vẽ thì thưởng cho đồ dung quần áo…”[31].
Tháng 7, Lê Đại Cương được “quyền lĩnh ấn Tổng đốc quan phòng tỉnh An - Hà”[32].
Tháng 10, “Cho quan Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương làm Tham tán Đại thần, nhưng lãnh tuần phủ”[33]. Lê Đại Cương làm Tham tán đại thần và được Vua nhiều lần ban khen làm tốt chức trách điều hành Trấn Tây Thành.
Bính Thân, năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), lúc này Lê Đại Cương 65 tuổi. Ông xin Vua cho về hưu, nhưng Vua Minh Mạng không cho, châu phê “Lão đương ích tráng” và dụ gắng sức ở lại làm việc. Tiếp tục làm Tuần phủ An Giang kiêm Trấn Tây Tham tán Đại thần. Vì vậy, Ông tiếp tục trấn thị ở thành Trấn Tây, không chỉ lo việc quân mà còn lo cả việc dân, tích trữ lương thực nuôi quân, đảm bảo an ninh ở vùng đất này.
Đinh Dậu, năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), tháng 3, Vua Minh Mạng mật dụ cho Tham tán Lê Đại Cương và tướng quân Trương Minh Giảng thu phục, cảm hoá dân Chân Lạp. Lời dụ viết: “Thành Trấn Tây là nơi trọng yếu ở biên cương, trẫm thương dân như một, muốn khiến dân phiên sớm nhiễm phong tục người Kinh, đều muốn thấm nhuần đức hoá nhà vua, lũ ngươi mình đảm đương gánh nặng, từ trước đến nay tuyên dương đức ý, người phiên đã vui theo giáo hoá chưa? Tình trạng thế nào? Xét xem súc man các phủ, đã nên đổi đặt danh hiệu xã thôn? Cùng các sự việc, việc gì đổi định mà lòng dân phiên đều thoả thuận, nên cứ thực tâu lên, việc nào còn quen tục cũ chưa tiện đổi ngay, không hại thì tạm để theo cũ, nên làm thế nào yên ủi dạy dỗ, khiến cho chúng chịu ảnh hưởng ngày càng cảm hoá mà không tự biết, mới là cách tốt dùng thói Kinh biến hoá thói man rợ, nên khéo xét mà làm”[34].
Mậu Tuất, năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), tháng giêng, “Án phủ là Phạm Ngọc Oánh, Hiệp lý là Đoàn Đức Giảng ở đạo Hải Đông phái vận lương thực, đạn dược đến quân thứ, khi đến đường rừng Ca Thi bị giặp cướp mất, biền binh gián hoặc có người bị thương, bị chết, quan thành ấy là bọn Đoàn Văn Phú đem việc tâu lên”[35]. Vua truyền chỉ quở mắng Lê Đại Cương và Trương Minh Giảng.
Tháng hai, Lê Đại Cương có tội, bị cách, phái theo quân thứ Hải Đông hiệu lực. “Tuần phủ An Giang sung làm Tham tán Trấn Tây là Lê Đại Cương có tội bị miễn chức, cho quyền hộ Tổng đốc Long Tường là Dương Văn Phong đổi lĩnh Tuần phủ An Giang, sung làm Tham tán đại thần ở thành Trấn Tây”. Vua vụ rằng: “Lê Đại Cương trước làm Tổng đốc An Hà, có tội bị cách nhiều lần, được khởi phục đến chức tuần phủ An Giang, lại uỷ cho giữ chức Tham tán ở Trấn Tây, long trọng biết chường nào? Chính phải trình bày mưu mô để chuộc lỗi trước. Thế mà từ trước đến nay, ở thành đã lâu ngày, mà công việc ở ngoài biên, nên chăng chỉ theo người. Nay dân Man không yên, quấy rối ở biên giới, lại sợ việc, sợ khó nhọc,… chuẩn cho cách chức, cho làm thuộc viên thành Trấn Tây, phái đi theo quân thứ ở Hải Đông làm việc chuộc tội”[36]. Loạn người Cao Miên nổi lên ở Hải Đông, Khai Miên, thổ binh Cao Miên ở đây theo loạn đảng, Lê Đại Cương bị quy tội “khinh nhờn”, bị cách chức tuần phủ An Giang, kiêm trấn tây tham tán đại thần, phải theo quân thứ Hải Đông hiệu lực. Trương Minh Giảng cũng bị quy tội bao che cho Lê Đại Cương cũng bị khiển trách. Tại đạo Trà Di, quân thứ Hải Đông, Lê Đại Cương đã đứng ra huấn luyện quân đội ở đây từ yếu thành mạnh, có sức chiến đấu cao, rồi đem quân kéo tới hợp với binh triều của Trương Minh Giảng, Dương Văn Phong đánh dẹp loạn đảng và giặc Xiêm.
Tháng 3, Trương Minh Giảng và Dương Văn Phong đem tình hình đánh giặc tâu với Vua Minh Mạng mong vua cho Lê Đại Cương đoái công chuột tội nhưng Vua không bằng lòng, có truyền rằng: “Đại cương bị tội cách lưu, sao dám tự tôn mình là Đại tướng? Chẳng sợ phép nước, chẳng kể công luận. Vậy Đại Cương phải tội trảm giam hậu (xử vào tội giảo, nhưng cho giam lại chờ xét xử sau) Trương Minh Giảng gián xuống làm binh bộ thượng thư, còn Dương Văn Phong gián ba cấp”[37].
Lê Đại Cương còn bị Vua ra lệnh bắt xích ngay giải về Kinh, giao cho bộ Hình nghiêm nghị. “Lê Đại Cương xuất thân hèn mọn, có công lao đã từng cất làm Tổng đốc An - Hà, ơn nước sâu nặng biết bao, thế mà trước đây Nam Kỳ có việc biến động cùng với Lê Phúc Bảo cùng đem đại binh tiến đánh, chưa thấy giặc mà chạy, toàn quân chết hết, bèn bỏ thành trốn, không lấy bờ cõi làm lo nghĩ, tội ấy đã không tha giết, tạm nghĩ trong lúc dùng quân nên cho tự sữa đổi, đặc ân cho gián cách, chưa bao lâu lại được khôi phục, làm đến chức Trấn Tây Tham tán đại thần, lại kiêm Tuần phủ An Giang, thế mà không biết tuyên dương đức hoá để đến nổi người Thổ nổi lên như ong quấy rối, điềm nhiên không biết xét làm việc để lo cho vua cha, pháp luật không thể tha được, bèn cách chức, phát đến trại quân gán sức chuột tội, chính phải cầm khí giới đi trước xông lên giết giặc, vẫn chưa thể báo được mãi mai, lại nghiễm nhiên theo địa vị đại tướng, tuỳ ý phóng túng chỉ bảo. Kìa như triều đình thưởng người có công, phạt người có tội, pháp kỹ rõ ràng, đã phải cách chức làm lính thì thân mình còn có quan chức gì sao được bừa bãi như thế. Không ngờ một kẻ già yếu không có tài lại dám trên không sợ phép nước, dưới không nghĩ công luận, quá đến như thế, nếu không trị tội sao tỏ được hình pháp. Lê Đại Cương phải bắt xích ngay giải về kinh, Giao cho bộ hình nghiêm nghị”[38]. Đây là biến cố lớn trong cuộc đời của Lê Đại Cương. Một tấm lòng luôn vì dân, vì nước, nhưng cuối đời phải chịu tội “trảm giam hậu”. Đây cũng là tấn bi kịch chung cho những người tài giỏi.
Bảng Âm lịch và Dương lịch về đóng góp quân sự của Tổng đốc An - Hà
Lê Đại Cương từ năm 1832 - 1838
Âm lịch
Dương lịch
Đóng góp về quân sự của Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương từ năm 1832 - 1838
Nhâm Thìn
1832
Tháng 11, Lê Đại Cương làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “bảo hộ Chân Lạp quốc”.
Quý Tỵ
1833
- Tháng giêng, để giữ gìn an ninh tốt hơn, Lê Đại Cương cùng Nguyễn Văn Quế xin triều đình cho thêm kinh binh.    
- Tháng 3, Lê Đại Cương tiến cử với Vua cho Hồ Công Chỉ lĩnh chức Chủ sự Bộ Binh. Cũng trong tháng 3, Theo tin thám được Ông nghi là quân Xiêm định tiến đánh nên phái binh đến thành Nam Vang trấn áp.
- Tháng 4, Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương, Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân tâu xin dồn bổ các lính ở đồn điền cũ vào 4 cơ thuộc tỉnh là An nghị tả, An nghị hữu, An nghị tiền, An nghị hậu, đặt mỗi cơ 1 phó quản cơ, lấy các nguyên Chánh phó trưởng chi bổ làm Cai đội thí sai, Phó quản cơ. Vua y cho.
- Tháng 5, Lê Đại Cương đề phòng biên giới bị xâm lược nên ông lo xây đắp thành tỉnh An Giang và lấy đồn làm phủ lỵ để được hùng tráng.
- Tháng 6, Nhà vua ra lệnh cho Lê Đại Cương hợp sức đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi
 - Quân của Lê Văn Khôi chiếm được tỉnh thành Định Tường “Tổng đốc An - Hà Lê Đại Cương ở Định Tường nghe tin, lập tức dẫn đại đội binh thuyền lui về phía song Ba Lầy (thuộc huyện Kiến Đăng, giáp đầu tỉnh An Giang). Binh và dân giữ Định Tường, đều xao xuyến, chạy trốn hết. Phúc Bảo ngồi một chiếc thuyền, lui đậu ở bến sông ngoài thành, bị quân giặc đuổi đến bức bách phải chạy về Vĩnh Long trước”. “Lê Đại Cương, Lê Phúc Bảo đều làm tớ tâu xin chịu tội.
- Tháng 8, Lê Đại Cương bị cách chức, từ Tổng đốc xuống làm lính đánh trận lập công.
- Tháng 9, Bình khấu đạo tướng quân là Trần Văn Năng, Tham tán là Lê Đăng Doanh ở quân thứ Gia Định tâu xin: “Tạm quyền cấp cho viên quan bị cách chức là Lê Đại Cương vẫn quản lĩnh binh võng dưới quyền được ở trong quân để đua sức làm việc. Vua ưng cho.
- Tháng 10, Quân lính của Lê Văn Khôi liều chết ra khỏi thành chiến đấu, quan quân bắt và chém không được nhiều, mà mình lại bị thương và chết đến hơn trăm, thế là lợi bất cập hại! “Lê Đại Cương, Vũ Phi Giám có nhiệm vụ chia giữ đồn tấn đều bị gián 2 cấp.
- Tháng 12, Lê Đại Cương được phục chức.
Giáp Ngọ
1834
- Tháng 3, quân Xiêm lại động binh uy hiếp Chân Lạp, quân của Lê Đại Cương phối hợp với quân của Trương Minh Giảng đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Cao Miên.
- Tháng 4, Quân Xiêm lại động binh uy hiếp Chân Lạp, Lê Đại Cương tâu Vua xin đem quân đánh giữ.
-Tháng 5, “Tổng đốc Trương Minh Giảng, Thự phủ Lê Đại Cương ở quân thứ Nam Vang tiến quân đến bến sông thuộc phủ Long Tôn. Giặc Xiêm, các đường thủy, bộ ở mật Vi Xà và Trúc Đồn (đầu đất Xiêm, tiếp giáp cuối địa giới Chân Lạp) nghe quân ta đến, đều bắn sung ra hiệu cho nhau rút lui. Bọn Giảng bèn liệu để lại 300 biền binh đóng vụng ở Xà Năng để làm thanh thế cho đồn Tịnh Biên. Lại sai người Phiên lập ở đấy một tấn sở lớn để phòng thủ. Rồi trở về Nam Vang, đem việc tâu lên”.
- Tháng 6, ông được thăng Tham tri bộ Binh, Tuần phủ An Giang.
- Tháng 7, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương tâu với Vua việc phòng giữ về sau, cả thảy 8 điều. Vua đều y cho.
- Tháng 8, Ông tiếp tục công việc ở Nam Vang.
- Tháng 11, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương, đốc, phủ ở quân thứ Nam Vang, tâu xin trích lấy những biền binh ở quân thứ Gia Định để đi đóng giữ An Giang và cho xuống thuyền, diễn tập thủy chiến; những cơ binh mới tuyển được lưu lại, đều cho kế tiếp cấp lương tháng.
- Tháng 12, Vua Chân Lạp là Nặc Chân chết. Vua cho Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương quyền làm việc nước Chân Lạp nhưng không được trái lệnh vượt quyền.
Ất Vị
1835
 - Tháng giêng, Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương hiệp cùng Tổng Đốc Trương Minh Giảng, kiêm lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp.
- Tháng 6, “Lãnh chức bảo hộ là bọn Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương ở thành Trấn Tây đem địa đồ thuộc thành và ngoài biên cương thành ấy dâng lên. Vua mở xem, thấy vẽ đường xá, hình thế, rõ rang dễ coi, ban khen.
- Tháng 7, Lê Đại Cương được quyền lĩnh ấn Tổng đốc quan phòng tỉnh An Giang - Hà Tiên.
- Tháng 10, Tuần phủ An Giang là Lê Đại Cương làm Tham tán Đại thần, nhưng lãnh tuần phủ.
Bính Thân
1836
 - Ông tiếp tục trấn thị ở thành Trấn Tây, không chỉ lo việc quân mà còn lo cả việc dân, tích trữ lương thực nuôi quân, đảm bảo an ninh ở vùng đất này.
Đinh Dậu
1837
- Tháng 3, Lê Đại Cương nhận mật dụ của Vua Minh Mạng về thu phục, cảm hoá dân Chân Lạp.
Mậu Tuất
1838
 - Tháng 2, Lê Đại Cương có tội, bị cách, phái theo quân thứ Hải Đông hiệu lực.
 - Tháng 3, Lê Đại Cương chịu tội trảm giam hậu.
Lê Đại Cương là một danh tướng luôn hết lòng vì dân, vì nước. Ông nổi tiếng là một kẻ sĩ liêm chính, cương trực, một tấm gương “tôi trung, con hiếu”. Khi làm Tổng đốc An - Hà kiêm lĩnh ấn “bảo hộ Chân Lạp quốc”, Ông Tham gia đánh giặc lập nhiều chiến công như: đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, đánh đuổi quân Xiêm, loạn đảng người Cao Miên bảo vệ vùng đất An Giang. Sự góp công của Lê Đại Cương cùng với hệ thống các chính sách tương đối toàn diện của nhà Nguyễn đã tạo nên sức mạnh và nguồn lực tổng hợp hỗ trợ cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Nam Bộ, tạo nên sức mạnh quân sự đánh bại các đội quân xâm lược. “Lê Đại Cương được sử sách triều Nguyễn đánh giá là có nhiều công lao trong xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước dưới thời vua Minh Mạng, nhất là trên mảnh đất biên viễn phương Nam, nơi ông từng cầm binh đánh giặc ngoại xâm Xiêm La, giữ yên bờ cõi nước ta và bảo vệ nền độc lập của nước Chân Lạp”[39]. Với những công lao đóng góp cùng với tài năng và đức độ của Ông cho phép chúng ta khẳng định: Lê Đại Cương là một danh nhân, một bậc quốc sĩ, là một nhân vật lịch sử sáng giá để lại cho hậu thế ngày sau noi theo.
Nguồn: vanhien.vn
______________________________ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đại Cương (2011), “Lê thị gia phả”, Nxb Dân Trí, Hà Nội.
2. Cao Xuân Dục (2005), “Đại Nam chính biên liệt truyện, Tập 5” (Bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn), Nxb. Văn học.
3. Cao Xuân Dục (1998), “Quốc triều chính biên toát yếu”, Nxb Thuận Hoá - Huế.
4. Cao Xuân Dục (2002), “Quốc triều sử toát yếu, Tập 3” (Bản dịch của Quốc sử quán triều Nguyễn và Hoàng Văn Lâu), Nxb. Văn học.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), “Đại Nam nhất thống chí, Tập 1”, Nxb Thuận Hóa.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Tập 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 5”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 6”, Nxb Giáo dục.
10. Đặng Hoài Dũng (2016), Lê Đại cương vị Tổng đốc An Hà đầu tiên, Truy cập từ ttp://thuvienangiang.com/tintucchitiet.php?id=410&ncm=25&cm=76, ngày cập nhật 12/5/2016.
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 426-427
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 466-467
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 487
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 490
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 504-505
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 516
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 532
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 583-584
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục, tr. 601-603
[10] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục, tr. 606-607
[11] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục, tr. 625
[12] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục, tr. 700
[13] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb Giáo dục, tr. 707-708
[14] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 708
[15] Lê Đại Cương (2011), “Lê thị gia phả”, Nxb Dân Trí, Hà Nội, tr. 75
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 755
[17] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 844
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 851
[19] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), “Đại Nam thực lục, Tập 3”, Nxb Giáo dục, tr. 945
[20] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 134
[21] Cao Xuân Dục (2002), “Quốc triều sử toát yếu, Tập 3”, Nxb. Văn học. tr. 226
[22] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 172
[23] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 182
[24] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 253
[25] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 297-299
[26] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 336
[27] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 420
[28] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 475
[29] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 4”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 493
[30] Cao Xuân Dục (2002), “Quốc triều sử toát yếu, Tập 3”, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 245
[31] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục”, Tập 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 701
[32] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục”, Tập 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 141
[33] Cao Xuân Dục (2002), “Quốc triều sử toát yếu, Tập 3”, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 255
[34] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 5”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 58
[35] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 5”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.238-239
[36] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 5”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.259
[37] Cao Xuân Dục (1998), “Quốc triều chính biên toát yếu”, Nxb. Thuận Hoá - Huế, tr. 291-292
[38] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), “Đại Nam thực lục, Tập 5”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.298
[39] Lê Đại Cương (2011), “Lê thị gia phả”, Nxb Dân Trí, Hà Nội, tr. 5-6.

Bài đăng nổi bật

HỌC TẬP VÀ NOI GƯƠNG BÁC TÔN LÀ VIỆC LÀM THIẾT THỰC TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH BÁC HỒ

Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân An Giang đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ, chúng ta càng nhớ đến Bác Tôn...

Bài đăng phổ biến