Wednesday, September 26, 2018

ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN NGÔ THẤT SƠN VÀ ĐƠN VỊ BỘ ĐỘI HẢI NGOẠI ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN ĐỘI TA



AHLLVTND Ngô Thất Sơn

Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và Tổ quốc mà chiến đấu là đặc trưng lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Mỗi khi đất nước lâm nguy, không chỉ nhân dân trong nước mà đồng bào ta ở nước ngoài, dù ở xa Tổ quốc, nhưng đông bào ta luôn biểu thị tinh thần dân tộc mạnh mẽ, luôn chứng tỏ tinh thần yêu nước cả những con dân đất Việt.
Ngày 9/3/1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, cao trào kháng Nhật cứu nước do Mặt trận Việt Minh phát động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương bùng phát và lan rộng mạnh mẽ, ảnh hưởng và thôi thúc tinh thần kiều bao ta ở Campuchia. Nhiều người đã tự nguyện hồi hương gia nhập Mặt trận Việt Minh, góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong đó có chàng trai tên Ngô Mảnh Gương.
Ngô Mảnh Gương tên thật là Trịnh Ngọc Ảnh, sinh năm 1919, tại xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Ngô Mảnh Gương được cha mẹ đưa sang thủ đô Phnom Penh (Campuchia) tiếp tục học tập, tốt nghiệp Thành Chung, làm giáo viên ở Kampong Cham.
Năm diễn ra sự biến Nhật đảo chính Pháp, Ngô Mảnh Gương chia tay vợ trở về Sài Gòn gia nhập Mặt trận Việt Minh, tham gia hoạt động chuẩn bị cướp chính quyền. Cách mạng tháng Tám thành công, Ngô Mảnh Gương được lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ cử làm Chỉ huy phó đoàn thân binh phục trách bảo vệ Xứ ủy và Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ.
Tháng 11/1945, Trần Văn Giàu - Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính Nam Bộ và Phạm Ngọc Thạch được triệu tập ra Hà Nội công tác, Ngô Mảnh Gương được cử đi theo giúp việc và làm nhiệm vụ bảo vệ. Có tinh thần trách nhiệm cao, năng nổ, tháo vát, dũng cảm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên suốt hành trình ra Bắc, nên khi đến Hà Nội, Ngô Mảnh Gương được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong dịp này, Ngô Mảnh Gương được đặt bí danh là Ngô Thất Sơn - đứa con của vùng Bảy Núi, An Giang.
Sau khi được kết nạp vào Đảng, Ngô Thất Sơn được cử đi học tại trường Võ bị Sơn Tây, tốt nghiệp loại ưu. Năm 1946, Ngô Thất Sơn được cử tham gia đoàn công tác, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông sang Thái Lan vận động kiều bào ủng hộ kháng chiến, tìm cách mua sắm vũ khí đánh chuyển về nước.
Tinh thần dân tộc trong đồng bào Việt kiều ở Thái Lan, Campuchia rất cao, không chỉ ủng hộ chật chất, quyên góp tiền mua sắm vũ khí, mà còn trao cả những đưa con thân yêu hồi hương đánh giặc cứu nước. Đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 đã ra đời như thế. Lúc này, Ngô Thất Sơn giữ một vai trò quan trọng, làm ủy viên quân sự, lo mua sắm vũ khí, đồng thời tuyển mộ tân binh, mở lớp huấn luyện quân sự, chọn những người có nhiệt huyết nhất, can đảm nhất để thành lập đơn vị chiến đấu về chi viện cho chiến trường Nam Bộ.
Ngày 10/8/1946, tại chiến khu 4 Tà Ôm, biên giới tỉnh Battambang, đồng chí Trần Văn Giàu thay mặt Bộ Tư lệnh Ủy ban hành chính - kháng chiến Nam Bộ công bố quyết định thành lập đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 Nam Bộ, trao quân kỳ, kiếm lệnh, toàn quân tuyên thệ hy sinh vì Tổ quốc. Đơn vị có 105 chiến sĩ, đa số là con em Việt kiều ở Battambang, do Huỳnh Văn Vàng (Dương Tấn) làm Chỉ huy trưởng, Ngô Thất Sơn làm Chỉ huy phó, Đặng Văn Duyệt làm Chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. Cùng ngày, Bộ đội Độc lập số 1 nhận lệnh xuất phát về nước trực tiếp tham gia chiến đấu cùng quân và dân các tỉnh Nam Bộ.
Hành quân qua tỉnh Siem Reap, tổ chức vũ trang Khmer Issarak chống Pháp đề nghị Bộ đội Độc lập số 1 giúp đỡ, Ngô Thất Sơn chỉ huy một bộ phận nhỏ của Bộ đội Độc lập số 1 lấy danh nghĩa Bộ đội Issarak vừa chiến đấu hỗ trợ lực lượng bạn, vừa hành quân về biên giới Việt Nam - Campuchia.
Trên đường hành quân về nước, ròng rã 40 ngày đêm băng rừng, vượt sông Mekong giữa mùa lũ chảy xiết, nhiều chiến sĩ trong đơn vị bị thất lạc. Ngày 20/9/1946, một bộ phận Bộ đội Độc lập số 1 về được chiến khu Trà Vong[2] (Tân Biên, Tây Ninh). Bộ phận còn lại về được vùng Lộc Ninh - Hớn Quản nhưng không móc nối được, lại bị giặc Pháp nhiều lần chặn đánh, phải vượt Sông Bé về vùng Bắc Đồng Xoài, bắt được liên lạc với Chi đội 10. Ngày 20/10/1946, hai bộ phận hội quân ở xã biên giới Hòa Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Lễ hội quân và ra mắt lực lượng được tổ chức trọng thể, Bộ đội Độc lập số 1 được đổi tên thành Bộ đội Hải ngoại 1 Nam Bộ, thuộc Quân khu 7, do Ngô Thất Sơn làm Chỉ huy trưởng thay đồng chí Huỳnh Văn Vàng được Quân khu 7 rút về hoạt động ở Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Lúc này, theo đề nghị của Ban lãnh đạo tỉnh Tây Ninh, Quân khu 7 chuẩn y cho Bộ đội Hải ngoại 1 lập căn cứ đứng chân hoạt động tại Tây Ninh để chi viện và phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh bảo vệ vùng biên giới từ Tây Ninh đến khu Đông Thành. Sau khi khảo sát địa bàn, các đồng chí Ngô Thất Sơn và Dương Minh Châu thống nhất chọn khu rừng Cây Cầy (nay thuộc xã Lưu Văn Vẳng, xã Hòa Hội, huyện Châu Thành) làm căn cứ của Bộ đội Hải ngoại 1.
Từ khi Nam Bộ kháng chiến bằng súng kíp, dao găm, tầm vong vạt nhọn, phải lấy máu để đổi lấy từng khẩu súng, nhặt lại từng viên đạn lép để chiến đấu thì sự chi viện của đơn vị Bộ đội Hải ngoại 1 có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Nói về điều này, cố Tổng bí thư Lê Duẫn đã gọi đó là “liều thuốc thần diệu từ tấm lòng yêu nước của kiều bào hải ngoại” đã gửi những đứa con em thân yêu về nước tham gia cứu quốc, trong đó có chàng trai Ngô Thất Sơn với trái tim yêu nước cháy bỏng.
2. Thời gian này, tình hình vùng biên giới tỉnh Tây Ninh hết sức phức tạp. Thực dân Pháp áp dụng chính sách chia để trị, xua lính Campuchia tràn qua biên giới vào đất ta cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp, giết chóc đồng bào ta để gây hận thù giữa hai dân tộc. Cùng lúc, chúng mua chuộc, lôi kéo bọn phản động trong lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài đánh phá cách mạng. Lúc này, Ngô Thất Sơn chỉ huy Bộ đội Hải ngoại 1 lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần làm thất bại âm mưu thâm độc của địch, xây dựng tuyến biên giới hữu nghị, đoàn kết chống Pháp giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Ngô Thất Sơn đã chỉ huy đơn vị chiến đấu chặn đánh lính Campuchia tràn qua biên giới, bảo vệ nhân dân, vừa răn đe, vừa tuyên truyền để lính Campuchia hiểu rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp. Đồng thời, Bộ đội Hải ngoại 1 còn tiến hành các hoạt động quấy rối địch, trừ gian diệt tề, bảo vệ phong trào cách mạng tại địa phương, vận động thanh niên tòng quân, kêu gọi đồng bào ủng hộ kháng chiến. Ngoài ra, một bộ phận của Bộ đội Hải ngoại 1 đã phối hợp với Chi đội 11 tổ chức nhiều trận chống càn bảo vệ vùng căn cứ, đối phó với lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài phản động trên địa bàn tỉnh.
Đặc biệt, Ngô Thất Sơn còn thành lập Đội công tác biên giới (còn gọi là tuyên truyền xung phong) gồm 11 chiến sĩ thông thạo tiếng Campuchia, lấy danh nghĩa là Bộ đội Issarak thực hiện võ trang tuyên truyền trong đồng bào người Việt, người Campuchia ở hai bên biên giới, vạch trần bản chất xâm lược của thực dân Pháp, kêu gọi đoàn kết chống kẻ thù chung. Rành tiếng Pháp, nói tiếng Campuchia chánh cống, cộng thêm sự chân thành của mình, Ngô Thất Sơn đã giác ngộ được nhiều sư sãi có uy tín cao, qua đó thuyết phục được một số trí thức người Campuchia tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng tại địa phương.
Bằng sự mưu trí, sáng tạo, dựa trên quan điểm đoàn kết Việt Nam - Campuchia đúng đắn, trong sáng, Ngô Thất Sơn đã kết hợp khéo léo giữa công tác tuyên truyền xung kích và hoạt động võ trang đánh địch, trừ gian diệt tề, đưa vùng biên cương Tây Ninh nhiều máu lửa, hận thù trở thành tuyến biên giới hữu nghị, đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
Năm 1947, Bộ đội Hải ngoại 1 được tăng cường quân số, chuyển thành Trung đoàn 305 do Ngô Thất Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tháng 10/1948, Quân khu 7 quyết định thành lập đơn vị quân tình nguyện mang tên Bộ đội Sivotha[3], gồm phần lớn lực lượng của Trung đoàn 305, một đại đội của Trung đoàn 311 và các lực lượng Khmer Issarak (Campuchia). Bộ đội Sivotha hoạt động chủ yếu ở Tây Ninh và các tỉnh Đông Bắc Campuchia giáp biên giới Việt Nam như: Svay Rieng, Prey Veng, Kampong Cham, Kratíe. Ban chỉ huy đơn vị gồm: Ngô Thất Sơn làm Chỉ huy trưởng, Trần Văn Đẩu làm Chỉ huy phó, Trịnh Xuân Đức làm Chính trị viên.
Bộ đội Sivotha ra đời là sự thay thế và kế tục nhiệm vụ của Bộ đội Hải ngoại 1. Rừng Cây Cầy, xã Hòa Hội tiếp tục là hậu cứ vững chắc của đơn vị, đồng thời là nơi học tập, huấn luyện của các đội võ trang công tác độc lập. Thành phần lực lượng của Bộ đội Sivotha có khoảng 600 chiến sĩ là Việt kiều, Khmer Nam Bộ và người Campuchia dưới sự chỉ huy của Ngô Thất Sơn nổi tiếng là lực lượng chiến đấu giỏi, kỷ luật nghiêm, được đồng bào Tây Ninh và nhân dân Campuchia hết sức tin tưởng, quý mến.
Bộ đội Sivotha đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân dân ta tại chiến trường Nam Bộ và sự nghiệp kháng chiến chống Pháp của toàn dân tộc, cũng như phong trào cách mạng của nước bạn Campuhia. Đặc biệt, trên tuyến biên giới Tây Ninh, nhiều căn cứ kháng chiến liên hoàn được xây dựng, tạo lá chắn an toàn phía sau lưng các căn cứ chiến lược của Tây Ninh đã góp phần đáng kể cho Tây Ninh và miền Đông Nam Bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và ảnh hưởng rất tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là công lao của đồng chí Ngô Thất Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha đã đóng góp cùng với Đảng bộ và Nhân dân Tây Ninh.
Đối với cách mạng Campuchia, Ngô Thất Sơn và Bộ đội Sivotha đã có công đào tạo nhiều cán bộ trung cấp, cao cấp tài năng và trung thành, một số sau này đã trở thành lãnh đạo cấp cao. Đó là sự giúp đỡ dựa trên quan điểm đoàn kết hữu nghị trong sáng của hai đảng, hai dân tộc, hai quân đội, mà trong đó cá nhân đồng chí Ngô Thất Sơn với tình cảm chân thành, thủy chung đã thực hiện quan điểm ấy một cách chí tình, tốt đẹp nhất. Cũng chính vì thế mà Ngô Thất Sơn được nhân dân Campuchia hết sức quý trọng, suy tôn đồng chí là Quan Năm “Sănk pram (đại tá) Naisơn Sichăn”.
3. Ngày 2/6/1949, thực dân Pháp huy động lực lượng lớn, có cả tàu chiến, mở trận càn vào cùng giải phóng Tây Ninh. Đang họp với Tỉnh ủy Tây Ninh tại căn cứ Khăn Xiêng - Tà Éc thì hay tin Pháp đổ quân đánh vào căn cứ Tà Nòn - Băng Dung, đồng chí Ngô Thất Sơn xin phép được vắng họp để trở về chỉ huy chống càn. Trên đường về chẳng may đồng chí lọt vào vòng vây của địch, trúng đạn bị thương rồi sa vào tay giặc.
Giặc Pháp mừng rỡ vì bắt được một “cộng sản Việt Nam cỡ bự” lại có uy tín lớn đối với người dân Campuchia nên tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ Ngô Thất Sơn cộng tác với chúng, thậm chí đưa ra đề nghị sẽ để giành ghế Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia nếu Ngô Thất Sơn chịu đầu hàng. Tuy nhiên, mọi cố gắng của chúng đều không thể khuất phục được ý chí và sự trung thành tuyệt đối của Ngô Thất Sơn, thậm chí giặc Pháp còn phải ngao ngán, nể phục trước sự gan góc và khí phách kiên cường của Ngô Thất Sơn.
Tháng 9/1952, thực dân Pháp đưa Ngô Thất Sơn về khám Đức Hòa (Long An), giam chung với bác sĩ Huỳnh Bá Nhung - Trưởng ty Y tế Gia Định. Chiều ngày 10/11/1952, giặc Pháp đưa hai đồng chí Ngô Thất Sơn và Huỳnh Bá Nhung ra cánh đồng bên ngoài trại giam rồi lén lút nổ súng thủ tiêu. Năm 1992, lãnh đạo tỉnh Tây Ninh và gia đình tổ chức cải táng, đưa thi hài đồng chí Ngô Thất Sơn về nghĩa trang liệt sĩ Tp. Hồ Chí Minh. Tháng 12/1994, liệt sĩ Ngô Thất Sơn được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau khi Ngô Thất Sơn bị địch bắt, Quân khu 7 rút đồng chí Huỳnh Văn Vàng trở về làm Chỉ huy trưởng Bộ đội Sivotha. Năm 1951, thực hiện chủ trương hợp nhất khu Đông Bắc và Đông Nam Campuchia, các lực lượng của Bộ đội Sivotha được điều động để sắp xếp thành những đơn vị mới của quân tình nguyện Việt Nam ở miền Đông Campuchia và bộ máy của các tỉnh Kampong Cham, Svay Rieng, Pray Veng. Tháng 4/1951, việc sắp xếp cơ bản hoàn tất, Bộ đội Sivotha khu Đông Bắc Campuchia không còn nữa.
4. Quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành của Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha là minh chứng hùng hồn cho tầm lòng “nồng nàn yêu nước” của kiều bào ta ở nước ngoài, cụ thể là ở Thái Lan, Campuchia. Dù bất cứ ở đâu, dù xa xôi Tổ quốc đến mấy vẫn tha thiết hướng về quê hương, sẵn sàng xả thân vì vận mệnh của dân tộc.
Ký ức về Anh hùng Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha đã gắn liền với trang sử oanh liệt của những năm đầu Nam Bộ kháng chiến cực kỳ cam go, gian khổ, thiếu thốn; gắn liền với tình đoàn kết hữu nghị trong sáng giữa Việt Nam - Campuchia. Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã hòa mình và góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, trở thành một phần không thể tách rời, một nét độc đáo trong lịch sử xây dựng, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngô Thất Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử quân đội ta, lịch sử quan hệ láng giềng đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia và sẽ mãi là niềm tự hào được nhắc nhớ trên quê hương An Giang, quê hương Tây Ninh và trong lòng nhân dân nước bạn Campuchia.
Đường Lập.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.171.
[2] Sau đổi thành Chiến khu Dương Minh Châu.
[3] Sivotha là tên của vị Hoàng thân Campuchia yêu nước - Angduong Sivotha (1841 - 1891), người chỉ huy cuộc nổi dậy phản đối triều đình Norodom I ký hiệp ước với thực dân Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn Vương quốc Campuchia.

No comments:

Post a Comment

Bài đăng nổi bật

HỌC TẬP VÀ NOI GƯƠNG BÁC TÔN LÀ VIỆC LÀM THIẾT THỰC TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH BÁC HỒ

Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân An Giang đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ, chúng ta càng nhớ đến Bác Tôn...

Bài đăng phổ biến