AHLLVTND Ngô Thất Sơn |
Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và Tổ quốc mà chiến đấu là đặc trưng lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1].
Mỗi khi đất nước lâm nguy, không chỉ nhân dân trong nước mà đồng bào ta ở nước
ngoài, dù ở xa Tổ quốc, nhưng đông bào ta luôn biểu thị tinh thần dân tộc mạnh
mẽ, luôn chứng tỏ tinh thần yêu nước cả những con dân đất Việt.
Ngày
9/3/1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, cao trào
kháng Nhật cứu nước do Mặt trận Việt Minh phát động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương bùng phát và lan rộng mạnh mẽ, ảnh hưởng và thôi thúc tinh thần
kiều bao ta ở Campuchia. Nhiều người đã tự nguyện hồi hương gia nhập Mặt trận
Việt Minh, góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong đó có chàng
trai tên Ngô Mảnh Gương.
Ngô Mảnh
Gương tên thật là Trịnh Ngọc Ảnh, sinh năm 1919, tại xã Vĩnh Gia, huyện Tri
Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Ngô Mảnh Gương được cha mẹ đưa
sang thủ đô Phnom Penh (Campuchia) tiếp tục học tập, tốt nghiệp Thành Chung, làm
giáo viên ở Kampong Cham.
Năm diễn
ra sự biến Nhật đảo chính Pháp, Ngô Mảnh Gương chia tay vợ trở về Sài Gòn gia
nhập Mặt trận Việt Minh, tham gia hoạt động chuẩn bị cướp chính quyền. Cách mạng
tháng Tám thành công, Ngô Mảnh Gương được lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ cử làm Chỉ huy
phó đoàn thân binh phục trách bảo vệ Xứ ủy và Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ.
Tháng
11/1945, Trần Văn Giàu - Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính Nam Bộ và Phạm
Ngọc Thạch được triệu tập ra Hà Nội công tác, Ngô Mảnh Gương được cử đi theo
giúp việc và làm nhiệm vụ bảo vệ. Có tinh thần trách nhiệm cao, năng nổ, tháo
vát, dũng cảm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên suốt hành trình ra Bắc, nên khi
đến Hà Nội, Ngô Mảnh Gương được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng
trong dịp này, Ngô Mảnh Gương được đặt bí danh là Ngô Thất Sơn - đứa con của
vùng Bảy Núi, An Giang.
Sau khi
được kết nạp vào Đảng, Ngô Thất Sơn được cử đi học tại trường Võ bị Sơn Tây, tốt
nghiệp loại ưu. Năm 1946, Ngô Thất Sơn được cử tham gia đoàn công tác, đồng thời
làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông sang Thái Lan
vận động kiều bào ủng hộ kháng chiến, tìm cách mua sắm vũ khí đánh chuyển về nước.
Tinh thần
dân tộc trong đồng bào Việt kiều ở Thái Lan, Campuchia rất cao, không chỉ ủng hộ
chật chất, quyên góp tiền mua sắm vũ khí, mà còn trao cả những đưa con thân yêu
hồi hương đánh giặc cứu nước. Đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 đã ra đời như thế. Lúc
này, Ngô Thất Sơn giữ một vai trò quan trọng, làm ủy viên quân sự, lo mua sắm
vũ khí, đồng thời tuyển mộ tân binh, mở lớp huấn luyện quân sự, chọn những người
có nhiệt huyết nhất, can đảm nhất để thành lập đơn vị chiến đấu về chi viện cho
chiến trường Nam Bộ.
Ngày
10/8/1946, tại chiến khu 4 Tà Ôm, biên giới tỉnh Battambang, đồng chí Trần Văn
Giàu thay mặt Bộ Tư lệnh Ủy ban hành chính - kháng chiến Nam Bộ công bố quyết định
thành lập đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 Nam Bộ, trao quân kỳ, kiếm lệnh, toàn quân
tuyên thệ hy sinh vì Tổ quốc. Đơn vị có 105 chiến sĩ, đa số là con em Việt kiều
ở Battambang, do Huỳnh Văn Vàng (Dương Tấn) làm Chỉ huy trưởng, Ngô Thất Sơn
làm Chỉ huy phó, Đặng Văn Duyệt làm Chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. Cùng
ngày, Bộ đội Độc lập số 1 nhận lệnh xuất phát về nước trực tiếp tham gia chiến
đấu cùng quân và dân các tỉnh Nam Bộ.
Hành quân
qua tỉnh Siem Reap, tổ chức vũ trang Khmer Issarak chống Pháp đề nghị Bộ đội Độc
lập số 1 giúp đỡ, Ngô Thất Sơn chỉ huy một bộ phận nhỏ của Bộ đội Độc lập số 1 lấy
danh nghĩa Bộ đội Issarak vừa chiến đấu hỗ trợ lực lượng bạn, vừa hành quân về
biên giới Việt Nam - Campuchia.
Trên đường
hành quân về nước, ròng rã 40 ngày đêm băng rừng, vượt sông Mekong giữa mùa lũ
chảy xiết, nhiều chiến sĩ trong đơn vị bị thất lạc. Ngày 20/9/1946, một bộ phận
Bộ đội Độc lập số 1 về được chiến khu Trà Vong[2]
(Tân Biên, Tây Ninh). Bộ phận còn lại về được vùng Lộc Ninh - Hớn Quản nhưng
không móc nối được, lại bị giặc Pháp nhiều lần chặn đánh, phải vượt Sông Bé về
vùng Bắc Đồng Xoài, bắt được liên lạc với Chi đội 10. Ngày 20/10/1946, hai bộ
phận hội quân ở xã biên giới Hòa Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Lễ hội
quân và ra mắt lực lượng được tổ chức trọng thể, Bộ đội Độc lập số 1 được đổi
tên thành Bộ đội Hải ngoại 1 Nam Bộ, thuộc Quân khu 7, do Ngô Thất Sơn làm Chỉ
huy trưởng thay đồng chí Huỳnh Văn Vàng được Quân khu 7 rút về hoạt động ở Đặc
khu Sài Gòn - Gia Định. Lúc này, theo đề nghị của Ban lãnh đạo tỉnh Tây Ninh,
Quân khu 7 chuẩn y cho Bộ đội Hải ngoại 1 lập căn cứ đứng chân hoạt động tại
Tây Ninh để chi viện và phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh bảo vệ
vùng biên giới từ Tây Ninh đến khu Đông Thành. Sau khi khảo sát địa bàn, các đồng
chí Ngô Thất Sơn và Dương Minh Châu thống nhất chọn khu rừng Cây Cầy (nay thuộc
xã Lưu Văn Vẳng, xã Hòa Hội, huyện Châu Thành) làm căn cứ của Bộ đội Hải ngoại
1.
Từ khi
Nam Bộ kháng chiến bằng súng kíp, dao găm, tầm vong vạt nhọn, phải lấy máu để đổi
lấy từng khẩu súng, nhặt lại từng viên đạn lép để chiến đấu thì sự chi viện của
đơn vị Bộ đội Hải ngoại 1 có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Nói về điều này, cố Tổng bí
thư Lê Duẫn đã gọi đó là “liều thuốc thần diệu từ tấm lòng yêu nước của kiều
bào hải ngoại” đã gửi những đứa con em thân yêu về nước tham gia cứu quốc, trong
đó có chàng trai Ngô Thất Sơn với trái tim yêu nước cháy bỏng.
2. Thời gian này, tình hình vùng biên giới tỉnh
Tây Ninh hết sức phức tạp. Thực dân Pháp áp dụng chính sách chia để trị, xua
lính Campuchia tràn qua biên giới vào đất ta cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp, giết
chóc đồng bào ta để gây hận thù giữa hai dân tộc. Cùng lúc, chúng mua chuộc,
lôi kéo bọn phản động trong lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài đánh phá cách
mạng. Lúc này, Ngô Thất Sơn chỉ huy Bộ đội Hải ngoại 1 lập nhiều chiến công xuất
sắc, góp phần làm thất bại âm mưu thâm độc của địch, xây dựng tuyến biên giới hữu
nghị, đoàn kết chống Pháp giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Ngô Thất
Sơn đã chỉ huy đơn vị chiến đấu chặn đánh lính Campuchia tràn qua biên giới, bảo
vệ nhân dân, vừa răn đe, vừa tuyên truyền để lính Campuchia hiểu rõ âm mưu thâm
độc của thực dân Pháp. Đồng thời, Bộ đội Hải ngoại 1 còn tiến hành các hoạt động
quấy rối địch, trừ gian diệt tề, bảo vệ phong trào cách mạng tại địa phương, vận
động thanh niên tòng quân, kêu gọi đồng bào ủng hộ kháng chiến. Ngoài ra, một bộ
phận của Bộ đội Hải ngoại 1 đã phối hợp với Chi đội 11 tổ chức nhiều trận chống
càn bảo vệ vùng căn cứ, đối phó với lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài phản động
trên địa bàn tỉnh.
Đặc biệt,
Ngô Thất Sơn còn thành lập Đội công tác biên giới (còn gọi là tuyên truyền xung
phong) gồm 11 chiến sĩ thông thạo tiếng Campuchia, lấy danh nghĩa là Bộ đội
Issarak thực hiện võ trang tuyên truyền trong đồng bào người Việt, người
Campuchia ở hai bên biên giới, vạch trần bản chất xâm lược của thực dân Pháp, kêu
gọi đoàn kết chống kẻ thù chung. Rành tiếng Pháp, nói tiếng Campuchia chánh cống,
cộng thêm sự chân thành của mình, Ngô Thất Sơn đã giác ngộ được nhiều sư sãi có
uy tín cao, qua đó thuyết phục được một số trí thức người Campuchia tham gia
công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng tại địa phương.
Bằng sự
mưu trí, sáng tạo, dựa trên quan điểm đoàn kết Việt Nam - Campuchia đúng đắn,
trong sáng, Ngô Thất Sơn đã kết hợp khéo léo giữa công tác tuyên truyền xung
kích và hoạt động võ trang đánh địch, trừ gian diệt tề, đưa vùng biên cương Tây
Ninh nhiều máu lửa, hận thù trở thành tuyến biên giới hữu nghị, đoàn kết chống
giặc ngoại xâm.
Năm 1947,
Bộ đội Hải ngoại 1 được tăng cường quân số, chuyển thành Trung đoàn 305 do Ngô
Thất Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tháng 10/1948, Quân khu 7 quyết định thành lập
đơn vị quân tình nguyện mang tên Bộ đội Sivotha[3],
gồm phần lớn lực lượng của Trung đoàn 305, một đại đội của Trung đoàn 311 và
các lực lượng Khmer Issarak (Campuchia). Bộ đội Sivotha hoạt động chủ yếu ở Tây
Ninh và các tỉnh Đông Bắc Campuchia giáp biên giới Việt Nam như: Svay Rieng,
Prey Veng, Kampong Cham, Kratíe. Ban chỉ huy đơn vị gồm: Ngô Thất Sơn làm Chỉ
huy trưởng, Trần Văn Đẩu làm Chỉ huy phó, Trịnh Xuân Đức làm Chính trị viên.
Bộ đội
Sivotha ra đời là sự thay thế và kế tục nhiệm vụ của Bộ đội Hải ngoại 1. Rừng
Cây Cầy, xã Hòa Hội tiếp tục là hậu cứ vững chắc của đơn vị, đồng thời là nơi học
tập, huấn luyện của các đội võ trang công tác độc lập. Thành phần lực lượng của
Bộ đội Sivotha có khoảng 600 chiến sĩ là Việt kiều, Khmer Nam Bộ và người
Campuchia dưới sự chỉ huy của Ngô Thất Sơn nổi tiếng là lực lượng chiến đấu giỏi,
kỷ luật nghiêm, được đồng bào Tây Ninh và nhân dân Campuchia hết sức tin tưởng,
quý mến.
Bộ đội
Sivotha đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi
chung của quân dân ta tại chiến trường Nam Bộ và sự nghiệp kháng chiến chống
Pháp của toàn dân tộc, cũng như phong trào cách mạng của nước bạn Campuhia. Đặc
biệt, trên tuyến biên giới Tây Ninh, nhiều căn cứ kháng chiến liên hoàn được
xây dựng, tạo lá chắn an toàn phía sau lưng các căn cứ chiến lược của Tây Ninh
đã góp phần đáng kể cho Tây Ninh và miền Đông Nam Bộ trong suốt cuộc kháng chiến
chống Pháp và ảnh hưởng rất tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.
Đó là công lao của đồng chí Ngô Thất Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha
đã đóng góp cùng với Đảng bộ và Nhân dân Tây Ninh.
Đối với
cách mạng Campuchia, Ngô Thất Sơn và Bộ đội Sivotha đã có công đào tạo nhiều
cán bộ trung cấp, cao cấp tài năng và trung thành, một số sau này đã trở thành
lãnh đạo cấp cao. Đó là sự giúp đỡ dựa trên quan điểm đoàn kết hữu nghị trong
sáng của hai đảng, hai dân tộc, hai quân đội, mà trong đó cá nhân đồng chí Ngô
Thất Sơn với tình cảm chân thành, thủy chung đã thực hiện quan điểm ấy một cách
chí tình, tốt đẹp nhất. Cũng chính vì thế mà Ngô Thất Sơn được nhân dân
Campuchia hết sức quý trọng, suy tôn đồng chí là Quan Năm “Sănk pram (đại tá)
Naisơn Sichăn”.
3. Ngày 2/6/1949, thực dân Pháp huy động lực lượng
lớn, có cả tàu chiến, mở trận càn vào cùng giải phóng Tây Ninh. Đang họp với Tỉnh
ủy Tây Ninh tại căn cứ Khăn Xiêng - Tà Éc thì hay tin Pháp đổ quân đánh vào căn
cứ Tà Nòn - Băng Dung, đồng chí Ngô Thất Sơn xin phép được vắng họp để trở về
chỉ huy chống càn. Trên đường về chẳng may đồng chí lọt vào vòng vây của địch,
trúng đạn bị thương rồi sa vào tay giặc.
Giặc Pháp
mừng rỡ vì bắt được một “cộng sản Việt Nam cỡ bự” lại có uy tín lớn đối với người
dân Campuchia nên tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ Ngô Thất Sơn cộng tác với
chúng, thậm chí đưa ra đề nghị sẽ để giành ghế Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia nếu
Ngô Thất Sơn chịu đầu hàng. Tuy nhiên, mọi cố gắng của chúng đều không thể khuất
phục được ý chí và sự trung thành tuyệt đối của Ngô Thất Sơn, thậm chí giặc
Pháp còn phải ngao ngán, nể phục trước sự gan góc và khí phách kiên cường của
Ngô Thất Sơn.
Tháng
9/1952, thực dân Pháp đưa Ngô Thất Sơn về khám Đức Hòa (Long An), giam chung với
bác sĩ Huỳnh Bá Nhung - Trưởng ty Y tế Gia Định. Chiều ngày 10/11/1952, giặc
Pháp đưa hai đồng chí Ngô Thất Sơn và Huỳnh Bá Nhung ra cánh đồng bên ngoài trại
giam rồi lén lút nổ súng thủ tiêu. Năm 1992, lãnh đạo tỉnh Tây Ninh và gia đình
tổ chức cải táng, đưa thi hài đồng chí Ngô Thất Sơn về nghĩa trang liệt sĩ Tp.
Hồ Chí Minh. Tháng 12/1994, liệt sĩ Ngô Thất Sơn được Chủ tịch nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau khi
Ngô Thất Sơn bị địch bắt, Quân khu 7 rút đồng chí Huỳnh Văn Vàng trở về làm Chỉ
huy trưởng Bộ đội Sivotha. Năm 1951, thực hiện chủ trương hợp nhất khu Đông Bắc
và Đông Nam Campuchia, các lực lượng của Bộ đội Sivotha được điều động để sắp xếp
thành những đơn vị mới của quân tình nguyện Việt Nam ở miền Đông Campuchia và bộ
máy của các tỉnh Kampong Cham, Svay Rieng, Pray Veng. Tháng 4/1951, việc sắp xếp
cơ bản hoàn tất, Bộ đội Sivotha khu Đông Bắc Campuchia không còn nữa.
4. Quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành của
Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha là minh chứng hùng hồn cho tầm lòng “nồng
nàn yêu nước” của kiều bào ta ở nước ngoài, cụ thể là ở Thái Lan, Campuchia. Dù
bất cứ ở đâu, dù xa xôi Tổ quốc đến mấy vẫn tha thiết hướng về quê hương, sẵn
sàng xả thân vì vận mệnh của dân tộc.
Ký ức về
Anh hùng Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội
Sivotha đã gắn liền với trang sử oanh liệt của những năm đầu Nam Bộ kháng chiến
cực kỳ cam go, gian khổ, thiếu thốn; gắn liền với tình đoàn kết hữu nghị trong
sáng giữa Việt Nam - Campuchia. Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của đơn vị
đã hòa mình và góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc, trở thành một phần không thể tách rời, một nét độc đáo trong lịch sử xây dựng,
trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngô Thất
Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử
quân đội ta, lịch sử quan hệ láng giềng đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia
và sẽ mãi là niềm tự hào được nhắc nhớ trên quê hương An Giang, quê hương Tây
Ninh và trong lòng nhân dân nước bạn Campuchia.
Đường Lập.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.171.
[2] Sau đổi thành Chiến khu Dương Minh
Châu.
[3] Sivotha là tên của vị Hoàng thân
Campuchia yêu nước - Angduong Sivotha
(1841 - 1891), người chỉ huy cuộc nổi dậy phản đối triều đình Norodom I ký hiệp
ước với thực dân Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn Vương quốc
Campuchia.
No comments:
Post a Comment