Thursday, September 27, 2018
Wednesday, September 26, 2018
CÁC MÁC - NHÀ CÁCH MẠNG, NHÀ LÝ LUẬN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ THẮNG LỢI CỦA DÒNG THÁC CÁCH MẠNG MANG TÊN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 5/5/1818 ở
thành phố Tờ-ri-ơ (Trier), Đức; từ trần ngày 14/3/1883 tại Luân Đôn, Anh. Năm
2018 là năm kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh và lần thứ 135 ngày mất của ông. Đây
là sự kiện có ý nghĩa lớn lao đối với nhân dân Việt Nam, phong trào công nhân
quốc tế và toàn nhân loại tiến bộ. Lần kỷ niệm này diễn ra trong bối cảnh sức mạnh
bất diệt của tư tưởng và thế giới quan cách mạng có sức thay đổi thế giới của
Mác đặc biệt tỏa sáng. Những thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,… sau đổi mới, cải cách, mở cửa hội nhập; song song
với sự khủng hoảng mang tính chu kỳ của xã hội tư bản chủ nghĩa là những lời khẳng
định trực tiếp cho tính đúng đắn của học thuyết Mác. Mặt khác, những cuộc công
kích, xuyên tạc dữ dội, hung hãn và kịch liệt của các thế lực thù địch càng chứng
tỏ sự thất bại của chúng trong việc ngăn cản ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Đặc trưng của thực tiễn xã hội ngày nay
biểu hiện qua những biến đổi vô cùng sâu sắc, với tiến bộ của cách mạng khoa học
- công nghệ và những hiểm họa của chiến tranh, xung đột tôn giáo và sắc tộc, tranh
giành bá quyền, khủng hoảng chu kỳ, thất nghiệp, phân hóa giàu - nghèo, bất
công… được gây nên bởi bản chất tham vọng của chủ nghĩa tư bản và mâu thuẫn nội
tại trong lòng xã hội đó. Trong bối cảnh đó, để trả lời câu hỏi đặt ra về sự tồn
tại và tiếp tục phát triển của xã hội loài người, hơn bao giờ hết, chúng ta cần
một lý luận và phương pháp khoa học giúp hiểu được bản chất của những xu thế
phát triển đối lập, nhận diện những lực lượng giai cấp giấu mặt đằng sau những
xu hướng đối lập ấy, tìm ra con đường để thực hiện khát vọng của các dân tộc đi
đến một viễn cảnh hoàn bình, ổn định được bảo đảm, không còn áp bức, bóc lột,
con người được giải phóng và phát triển toàn diện.
Chúng ta kính trọng C.Mác, cùng với
Ăngghen - hai vĩ nhân đã sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, thế giới quan
khoa học, lý luận và cương lĩnh cho phong trào công nhân trong công cuộc kiến tạo
một xã hội tốt đẹp. Lý luận của Mác đã được kế tục một cách sáng tạo trong
phong trào công nhân quốc tế, trong đó, V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô đóng
vai trò đặc biệt xuất sắc. Không chỉ kế tục sáng tạo, Lênin còn bảo vệ chủ
nghĩa Mác chống lại mọi cuộc công kích và làm phong phú thêm chủ nghĩa xã hội
khoa học với những kiến thức mới mẻ. Hiện nay, các đảng cộng sản trên thế giới,
nhất là các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt
Nam, Cuba, Triều Tiên,… vẫn đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa
học, đang thực hiện một cách kiên trì và tin tưởng nhiệm vụ bảo vệ, tiếp tục
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy đó làm nền tảng lý luận. Ảnh hưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin trở nên lớn mạnh và ngày càng lan tỏa là bởi, chủ nghĩa ấy có
thể trả lời một cách tổng quát mọi vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta. Nó là
kim chỉ nam đáng tin cậy cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, cho hòa bình
và nhân loại tiến bộ.
2. C.Mác cùng với Ph.Ăngghen đã sáng lập
nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị
học và chủ nghĩa xã hội khoa học - lý luận hoàn chỉnh của giai cấp công nhân. Mác
đã lĩnh hội những thành quả quan trọng của khoa học và văn hóa từ các bậc tiền
bối, để trả lời một cách sáng tạo những câu hỏi lịch sử đặt ra. Chủ nghĩa Mác
là một thế giới quan khoa học và cách mạng, nó được hình thành trong mối quan hệ
chặt chẽ với quá trình đấu tranh giai cấp và thể hiện được quyền lợi, cũng như
đòi hỏi của giai cấp vô sản, là vũ khí sắc bén nhất của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh chống áp bức, giành tự do.
Mác là người đầu tiên đã chứng minh rằng
không có lý luận, tư tưởng xã hội nào có thể tồn tại bên ngoài các mối quan hệ
giai cấp. Tư tưởng luôn là tấm gương phản chiếu quyền lợi của các giai cấp và
phục vụ cho quyền lợi này, và do đó, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vấp phải sự kháng
cự quyết liệt của tư tưởng tư sản, thường xuyên bị công kích, xuyên tạc, bôi nhọ.
Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin khiến giai cấp tư sản phải luôn tìm cách chống
lại, nhưng lịch sử đã chứng minh, tất cả mọi cố gắng của giai cấp tư sản đều
không thể ngăn cản được sự thật là chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành dòng thác
trí tuệ có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại chúng ta.
Một trong những phát hiện quan trọng nhất
của Mác là quan điểm về duy vật lịch sử. Ông đã vạch ra những quy luật vận động
nói chung của xã hội loài người, trong đó đấu tranh giai cấp là động lực trực
tiếp của tiến bộ xã hội có giai cấp đối kháng. Quan điểm khoa học biện chứng là
cơ sở trước hết cho cách nhìn khoa học những điều kiện khách quan, phương hướng,
mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân và chính đảng của họ. Sự diệt vong của
chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là điều tất yếu, là quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội. Không ai khác, chính lực lượng sản xuất hiện
đại và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các dân tộc bị áp
bức sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản.
Trong bộ “Tư bản”, Mác đã phát hiện những
quy luật vận động kinh tế của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản
chất và chỉ ra những xu hướng phát triển lịch sử của nó, trong đó lý thuyết về
giá trị thặng dư có vị trí chủ đạo. Mác đã chứng minh, mâu thuẫn đối kháng giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản không bao giờ có thể dung hòa được. Trên cơ
sở đó, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân đã được lập luận một cách chặt chẽ,
sâu sắc nhất.
Điều quan trọng nhất trong lý luận của
Mác là đã chỉ ra vai trò lịch sử quốc tế của giai cấp vô sản - lực lượng sáng tạo
ra xã hội xã hội chủ nghĩa. Hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những lực
lượng sản xuất tất yếu phải tự xung đột với hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất
tư bản chủ nghĩa, đồng thời nó cũng sinh ra một giai cấp có khả năng và trách
nhiệm giải quyết xung đột đó ở một mức độ phát triển lịch sử nhất định. Giai cấp
công nhân tự rèn luyện mình, tự thống nhất và tổ chức ngay trong quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa, có trọng trách lịch sử là thủ tiêu phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, thông qua đó để xóa bỏ toàn
bộ chế độ áp bức, bóc lột.
Trọng trách này đòi hỏi phải thông qua một
quyền lực chính trị, thông qua nền chuyên chính vô sản. Giai cấp vô sản sẽ dùng
ưu thế chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay
giai cấp tư sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước - tức
là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị - để tăng
số lượng những lực lượng sản xuất lên nhanh nhất. Mác cũng nhấn mạnh, giai cấp
công nhân cần phải có chuyên chính vô sản để nhằm đạt được mục đích cuối cùng của
mình là chủ nghĩa cộng sản không giai cấp. Vì vậy, trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản
- cương lĩnh đầu tiên của giai cấp công nhân - Mác và Ăngghen đã chỉ rõ, giai cấp
công nhân cần phải có một đảng cách mạng để thực hiện vai trò lịch sử của mình.
C.Mác là vị lãnh tụ được kính trọng của
phong trào công nhân quốc tế, bởi ông coi đấu tranh cách mạng là cội nguồn và mục
đích sáng tạo lý luận của mình. Năm 1847, với sự tham gia của Mác và Ănghen, “Đồng
minh những người cộng sản” - đảng cách mạng đầu tiên của giai cấp công nhân Đức
và đồng thời của giai cấp công nhân quốc tế trên nền tảng của chủ nghĩa xã hội
khoa học - đã được thành lập. Đỉnh cao trong sự nghiệp cách mạng của Mác gắn liền
với hoạt động của “Liên đoàn công nhân quốc tế” trong khoảng thời gian 1864 -
1876 với tư cách là người tổ chức, lãnh tụ của Quốc tế I. Dưới sự lãnh đạo của
Mác, các tổ chức công nhân của nhiều nước trên thế giới đã được tập hợp vào quỹ
đạo cách mạng thống nhất, và việc hình thành những đảng cách mạng ở mỗi nước được
thúc đẩy. Trong sự nghiệp đấu tranh của mình, Mác đã biết cách quy tụ những người
bạn chiến đấu, những người trung thành dám xả thân cho sự nghiệp của giai cấp
công nhân, trang bị lý luận cho họ và đào tạo họ trở thành những nhà cách mạng
quốc tế.
3.
Từ khi những người cộng
sản chính thức “công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục
đích, ý đồ của mình”[1]
vào năm 1848 với Tuyên ngôn Đảng cộng sản, lịch sử nhân loại đã ghi lại những
thắng lợi liên tiếp của chủ nghĩa Mác, và sau đó, từ cuối thế kỷ XIX đến những
năm 20 của thế kỷ XX là chủ nghĩa Lênin, và ngày nay là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là tập đại thành về
tư duy và tư tưởng của nhân loại. Sức sống và ảnh hưởng của chủ nghĩa ấy được
chứng minh bởi những biến đổi lịch sử từ thế kỷ XIX in dấu ấn thiên tài của Mác
và Ăngghen với Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Công xã Paris, những diễn tiến lịch sử
đấu tranh giai cấp, các mạng xã hội được hai ông tổng kết và nêu ra những dự
báo về xã hội tương lai của nhân loại… đến thế kỷ XX, với thành công của Cách mạng
tháng Mười Nga, đánh dấu sự xác lập chính thức của chủ nghĩa xã hội hiện thực,
mở ra thời đại mới của lịch sử nhân lại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa hấp dẫn hàng triệu trái tim,
khối óc loài người không chỉ với tư cách là thế giới quan duy nhất khoa học, mà
hơn thế, còn bằng cả một phong trào chính trị rộng lớn trên các lục địa, nhất
là bằng chủ nghĩa xã hội hiện thực tồn tại với tư cách một hệ thống thế giới, ở
đó giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc từng bị áp bức đã làm chủ
vận mệnh của mình, là chủ xã hội, làm chủ quá trình phát triển lịch sử. Sức mạnh
và cuộc diễu hành của ba dòng thác cách mạng trong thế kỷ XX là bằng chứng hùng
hồn về sức sống, tính sáng tạo, ý nghĩa quốc tế của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn lịch sử đó khiến kẻ thù của những
người cộng sản lo lắng, tìm mọi cách ngăn chặn ảnh hưởng của học thuyết Mác -
Lênin bằng cách đẩy mạnh cuộc tấn công tư tưởng - lý luận chống chủ nghĩa Mác -
Lênin, tiến hành các hoạt động phá hoại nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa và phá
hoại sự đoàn kết quốc tế của những người cộng sản. Sự tấn công điên cuồng của
chủ nghĩa đế quốc, thế lực phản động quốc tế, cộng với nhiều vấp váp từ bản
thân những thế hệ kế tục các nhà kinh điển khi không xem xét và xử lý hệ thống
lý luận Mác - Lênin một cách biện chứng, chưa phát triển và vận dụng hệ thống
lý luận Mác - Lênin một cách phù hợp với thực tiễn, đáp ứng đúng thực tiễn như
bản thân phép biện chứng duy vật mác-xít đòi hỏi đã dẫn đến sự tan rã của Liên
bang Xô viết và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu trở thành “cơ hội”, “điển tích dẫn chứng” cho những
kẻ thù hằn chủ nghĩa Mác - Lênin hét lớn về sự cáo chung của hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng tuyên bố về “sự cáo chung” liệu có khách quan? Thực tiễn cho
thấy chủ nghĩa xã hội dù có thoái trào, nhưng điều đó không đồng nghĩa với hệ
tư tưởng xã hội chủ nghĩa mất đi sức sống và vai trò dẫn đường của nó đối với sự
nghiệp cách mạng của các dân tộc trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển không
ngừng của các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,… và việc
các đảng cộng sản trên thế giới tập hợp lại lực lượng, bổ sung lý luận, đề ra kế
hoạch hành động hướng tới chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản đã hình
thành và phát triển ở các đảng cộng sản, các đảng cánh tả ở khu vực châu Mĩ
la-tinh. Thực tiễn đó tiếp tục minh chứng cho sức sống bất diệt của hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Có một thực tế hiện hữu đó là, trong bối
cảnh các quốc gia dân tộc hiện đang cùng tồn tại, cùng hợp tác, cạnh tranh và đấu
tranh, song phương và đa phương, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ thuộc về sự
quan tâm của những người cộng sản, các đảng cộng sản và các nước lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà còn thu hút sự quan tâm, nhận thức, đánh giá
của những người không theo học thuyết Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin, hiện
nay được nghiên cứu, trao đổi, đối thoại, nhận thức như những giá trị khoa học
và văn hóa đã từng có mặt và sẽ mãi được nhắc đến trong di sản văn hóa tinh thần
của nhân loại.
Trong đó, nhiều học giả tư sản, sống
trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, sau khi tiếp cận nghiên cứu học thuyết của
Mác đã đưa ra những nhận định công bằng, tôn trọng sự thật, trực tiếp khẳng định
giá trị, ý nghĩa và sức sống của chủ nghĩa Mác đối với thời đại. Điển hình như
Terry Eagleton, Giáo sư Trường đại học Tổng hợp Lancaster - Vương quốc Anh, tác
giả của cuốn sách Tại sao Mác đúng? (Why
Marx was right?) xuất bản đầu năm 2011. Trong tác phẩm của mình, Eagleton
đã dũng cảm đưa ra những chính kiến của mình về học thuyết của Mác, ông khẳng định,
“chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chủ nghĩa Mác cũng sẽ tồn tại”[2].
Không chỉ vậy, sau khi quan sát, phân tích, vạch rõ thực tại của xã hội tư bản
chủ nghĩa, Eagleton đã đi đến nhận định, “để loài người có được bước phát triển
cao hơn, an toàn, công bằng hơn về vật chất và tinh thần thì cần phải có một
hình thức xã hội khác cao hơn xã hội tư bản”[3]. Đồng
thời, qua những nghiên cứu của mình về chủ nghĩa Mác, Eagleton thẳng thắn cho rằng,
“những phê bán chủ nghĩa Mác là “lạc hậu”, là “không còn phù hợp”, “không thể gắn
nó với những vấn đề kinh tế và chính trị đương đại” là những phê phán bộc lộ rõ
sự thiếu hiểu biết”[4].
Những nhận định, đánh giá khách quan và
đúng đắn như vậy của một giáo sư trong giới học giả tư sản một lần nữa cho thấy
giá trị, sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác và tính triển vọng tất yếu của chủ
nghĩa xã hội. Điều đó mang lại cho chúng ta thêm một cơ sở mới để củng cố niềm
tin vào chủ nghĩa Mác với vai trò là nền tảng tư tưởng của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
4.
Cuối cùng, di sản lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sâu sức đến
những vấn đề chi tiết, nhưng chưa phải là toàn bộ những giải đáp sẵn có cho bất
cứ câu hỏi nào của thời đại ngày nay đặt ra. V.I.Lênin không bao giờ cho rằng học
thuyết của mình có khả năng như vậy, Người viết: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi
đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều
tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc
sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ,
vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống
xã hội”[5]. Lênin
nói C.Mác không tự trói tay mình, cũng không trói tay những người cộng sản
tương lai bằng những kết luận do mình đề ra. Bởi vì, Mác biết biết rằng lịch sử
phát triển sẽ đưa lại biết bao điều mới mẻ. Đến lượt mình, Lênin cũng có thái độ
như vậy đối với lý luận do mình đề ra và cũng hoàn toàn như Mác, Lênin luôn đòi
hỏi sáng tạo trong thực tiễn cũng như trong lý luận cách mạng.
Tất nhiên, trên những vấn đề cơ bản có
tính nguyên tắc, chúng ta chỉ có thể tìm thấy phương hướng giải quyết đúng đắn
từ trong chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là phương pháp luận khoa học và cách
mạng. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chính là ở đó.
Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam đứng
trước những nhiệm vụ lịch sử hết sức nặng nề. Tính chất phức tạp, đa dạng và mới
mẻ của các nhiệm vụ càng đòi hỏi chúng ta phải nắm chắc phương pháp lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết đúng đắn và sáng tạo những vấn đề nảy
sinh trong đời sống kinh tế - xã hội, trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Chúng ta đang sống trong thời đại của những
chuyển biến sâu sắc, dồn dập. Những diễn biến thay đổi mau lẹ của đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội
nhưng cũng không ít thách thức đối với con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn và đang tiếp bước. Những di sản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời
đại mới là vô giá, bất chấp và chiến thắng mọi sự công kích của các thế lực thù
địch, mãi soi sáng những mục tiêu cao cả của thời đại, mãi là ngọn cờ dẫn dắt
chúng ta tiến lên, mãi là vũ khí lý luận sắc bén không gì thay thế được giúp
chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù, chiếm lấy cơ hội, vượt qua thách tức, đưa sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới đích cuối cùng - chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Ths. Lê Phương Thanh
BTG-CMAG.
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995, tr.595.
[2] Xem Hội đồng lý luận Trung ương, Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù
địch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.60.
[3] Hội đồng lý luận Trung ương, Sđd, tr.59.
[4] Hội đồng lý luận Trung ương, Sđd, tr.58.
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN NGÔ THẤT SƠN VÀ ĐƠN VỊ BỘ ĐỘI HẢI NGOẠI ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN ĐỘI TA
![]() |
AHLLVTND Ngô Thất Sơn |
Ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và Tổ quốc mà chiến đấu là đặc trưng lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1].
Mỗi khi đất nước lâm nguy, không chỉ nhân dân trong nước mà đồng bào ta ở nước
ngoài, dù ở xa Tổ quốc, nhưng đông bào ta luôn biểu thị tinh thần dân tộc mạnh
mẽ, luôn chứng tỏ tinh thần yêu nước cả những con dân đất Việt.
Ngày
9/3/1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, cao trào
kháng Nhật cứu nước do Mặt trận Việt Minh phát động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương bùng phát và lan rộng mạnh mẽ, ảnh hưởng và thôi thúc tinh thần
kiều bao ta ở Campuchia. Nhiều người đã tự nguyện hồi hương gia nhập Mặt trận
Việt Minh, góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong đó có chàng
trai tên Ngô Mảnh Gương.
Ngô Mảnh
Gương tên thật là Trịnh Ngọc Ảnh, sinh năm 1919, tại xã Vĩnh Gia, huyện Tri
Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Ngô Mảnh Gương được cha mẹ đưa
sang thủ đô Phnom Penh (Campuchia) tiếp tục học tập, tốt nghiệp Thành Chung, làm
giáo viên ở Kampong Cham.
Năm diễn
ra sự biến Nhật đảo chính Pháp, Ngô Mảnh Gương chia tay vợ trở về Sài Gòn gia
nhập Mặt trận Việt Minh, tham gia hoạt động chuẩn bị cướp chính quyền. Cách mạng
tháng Tám thành công, Ngô Mảnh Gương được lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ cử làm Chỉ huy
phó đoàn thân binh phục trách bảo vệ Xứ ủy và Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ.
Tháng
11/1945, Trần Văn Giàu - Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính Nam Bộ và Phạm
Ngọc Thạch được triệu tập ra Hà Nội công tác, Ngô Mảnh Gương được cử đi theo
giúp việc và làm nhiệm vụ bảo vệ. Có tinh thần trách nhiệm cao, năng nổ, tháo
vát, dũng cảm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên suốt hành trình ra Bắc, nên khi
đến Hà Nội, Ngô Mảnh Gương được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng
trong dịp này, Ngô Mảnh Gương được đặt bí danh là Ngô Thất Sơn - đứa con của
vùng Bảy Núi, An Giang.
Sau khi
được kết nạp vào Đảng, Ngô Thất Sơn được cử đi học tại trường Võ bị Sơn Tây, tốt
nghiệp loại ưu. Năm 1946, Ngô Thất Sơn được cử tham gia đoàn công tác, đồng thời
làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông sang Thái Lan
vận động kiều bào ủng hộ kháng chiến, tìm cách mua sắm vũ khí đánh chuyển về nước.
Tinh thần
dân tộc trong đồng bào Việt kiều ở Thái Lan, Campuchia rất cao, không chỉ ủng hộ
chật chất, quyên góp tiền mua sắm vũ khí, mà còn trao cả những đưa con thân yêu
hồi hương đánh giặc cứu nước. Đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 đã ra đời như thế. Lúc
này, Ngô Thất Sơn giữ một vai trò quan trọng, làm ủy viên quân sự, lo mua sắm
vũ khí, đồng thời tuyển mộ tân binh, mở lớp huấn luyện quân sự, chọn những người
có nhiệt huyết nhất, can đảm nhất để thành lập đơn vị chiến đấu về chi viện cho
chiến trường Nam Bộ.
Ngày
10/8/1946, tại chiến khu 4 Tà Ôm, biên giới tỉnh Battambang, đồng chí Trần Văn
Giàu thay mặt Bộ Tư lệnh Ủy ban hành chính - kháng chiến Nam Bộ công bố quyết định
thành lập đơn vị Bộ đội Độc lập số 1 Nam Bộ, trao quân kỳ, kiếm lệnh, toàn quân
tuyên thệ hy sinh vì Tổ quốc. Đơn vị có 105 chiến sĩ, đa số là con em Việt kiều
ở Battambang, do Huỳnh Văn Vàng (Dương Tấn) làm Chỉ huy trưởng, Ngô Thất Sơn
làm Chỉ huy phó, Đặng Văn Duyệt làm Chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. Cùng
ngày, Bộ đội Độc lập số 1 nhận lệnh xuất phát về nước trực tiếp tham gia chiến
đấu cùng quân và dân các tỉnh Nam Bộ.
Hành quân
qua tỉnh Siem Reap, tổ chức vũ trang Khmer Issarak chống Pháp đề nghị Bộ đội Độc
lập số 1 giúp đỡ, Ngô Thất Sơn chỉ huy một bộ phận nhỏ của Bộ đội Độc lập số 1 lấy
danh nghĩa Bộ đội Issarak vừa chiến đấu hỗ trợ lực lượng bạn, vừa hành quân về
biên giới Việt Nam - Campuchia.
Trên đường
hành quân về nước, ròng rã 40 ngày đêm băng rừng, vượt sông Mekong giữa mùa lũ
chảy xiết, nhiều chiến sĩ trong đơn vị bị thất lạc. Ngày 20/9/1946, một bộ phận
Bộ đội Độc lập số 1 về được chiến khu Trà Vong[2]
(Tân Biên, Tây Ninh). Bộ phận còn lại về được vùng Lộc Ninh - Hớn Quản nhưng
không móc nối được, lại bị giặc Pháp nhiều lần chặn đánh, phải vượt Sông Bé về
vùng Bắc Đồng Xoài, bắt được liên lạc với Chi đội 10. Ngày 20/10/1946, hai bộ
phận hội quân ở xã biên giới Hòa Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Lễ hội
quân và ra mắt lực lượng được tổ chức trọng thể, Bộ đội Độc lập số 1 được đổi
tên thành Bộ đội Hải ngoại 1 Nam Bộ, thuộc Quân khu 7, do Ngô Thất Sơn làm Chỉ
huy trưởng thay đồng chí Huỳnh Văn Vàng được Quân khu 7 rút về hoạt động ở Đặc
khu Sài Gòn - Gia Định. Lúc này, theo đề nghị của Ban lãnh đạo tỉnh Tây Ninh,
Quân khu 7 chuẩn y cho Bộ đội Hải ngoại 1 lập căn cứ đứng chân hoạt động tại
Tây Ninh để chi viện và phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh bảo vệ
vùng biên giới từ Tây Ninh đến khu Đông Thành. Sau khi khảo sát địa bàn, các đồng
chí Ngô Thất Sơn và Dương Minh Châu thống nhất chọn khu rừng Cây Cầy (nay thuộc
xã Lưu Văn Vẳng, xã Hòa Hội, huyện Châu Thành) làm căn cứ của Bộ đội Hải ngoại
1.
Từ khi
Nam Bộ kháng chiến bằng súng kíp, dao găm, tầm vong vạt nhọn, phải lấy máu để đổi
lấy từng khẩu súng, nhặt lại từng viên đạn lép để chiến đấu thì sự chi viện của
đơn vị Bộ đội Hải ngoại 1 có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Nói về điều này, cố Tổng bí
thư Lê Duẫn đã gọi đó là “liều thuốc thần diệu từ tấm lòng yêu nước của kiều
bào hải ngoại” đã gửi những đứa con em thân yêu về nước tham gia cứu quốc, trong
đó có chàng trai Ngô Thất Sơn với trái tim yêu nước cháy bỏng.
2. Thời gian này, tình hình vùng biên giới tỉnh
Tây Ninh hết sức phức tạp. Thực dân Pháp áp dụng chính sách chia để trị, xua
lính Campuchia tràn qua biên giới vào đất ta cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp, giết
chóc đồng bào ta để gây hận thù giữa hai dân tộc. Cùng lúc, chúng mua chuộc,
lôi kéo bọn phản động trong lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài đánh phá cách
mạng. Lúc này, Ngô Thất Sơn chỉ huy Bộ đội Hải ngoại 1 lập nhiều chiến công xuất
sắc, góp phần làm thất bại âm mưu thâm độc của địch, xây dựng tuyến biên giới hữu
nghị, đoàn kết chống Pháp giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
Ngô Thất
Sơn đã chỉ huy đơn vị chiến đấu chặn đánh lính Campuchia tràn qua biên giới, bảo
vệ nhân dân, vừa răn đe, vừa tuyên truyền để lính Campuchia hiểu rõ âm mưu thâm
độc của thực dân Pháp. Đồng thời, Bộ đội Hải ngoại 1 còn tiến hành các hoạt động
quấy rối địch, trừ gian diệt tề, bảo vệ phong trào cách mạng tại địa phương, vận
động thanh niên tòng quân, kêu gọi đồng bào ủng hộ kháng chiến. Ngoài ra, một bộ
phận của Bộ đội Hải ngoại 1 đã phối hợp với Chi đội 11 tổ chức nhiều trận chống
càn bảo vệ vùng căn cứ, đối phó với lực lượng quân đội giáo phái Cao Đài phản động
trên địa bàn tỉnh.
Đặc biệt,
Ngô Thất Sơn còn thành lập Đội công tác biên giới (còn gọi là tuyên truyền xung
phong) gồm 11 chiến sĩ thông thạo tiếng Campuchia, lấy danh nghĩa là Bộ đội
Issarak thực hiện võ trang tuyên truyền trong đồng bào người Việt, người
Campuchia ở hai bên biên giới, vạch trần bản chất xâm lược của thực dân Pháp, kêu
gọi đoàn kết chống kẻ thù chung. Rành tiếng Pháp, nói tiếng Campuchia chánh cống,
cộng thêm sự chân thành của mình, Ngô Thất Sơn đã giác ngộ được nhiều sư sãi có
uy tín cao, qua đó thuyết phục được một số trí thức người Campuchia tham gia
công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng tại địa phương.
Bằng sự
mưu trí, sáng tạo, dựa trên quan điểm đoàn kết Việt Nam - Campuchia đúng đắn,
trong sáng, Ngô Thất Sơn đã kết hợp khéo léo giữa công tác tuyên truyền xung
kích và hoạt động võ trang đánh địch, trừ gian diệt tề, đưa vùng biên cương Tây
Ninh nhiều máu lửa, hận thù trở thành tuyến biên giới hữu nghị, đoàn kết chống
giặc ngoại xâm.
Năm 1947,
Bộ đội Hải ngoại 1 được tăng cường quân số, chuyển thành Trung đoàn 305 do Ngô
Thất Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tháng 10/1948, Quân khu 7 quyết định thành lập
đơn vị quân tình nguyện mang tên Bộ đội Sivotha[3],
gồm phần lớn lực lượng của Trung đoàn 305, một đại đội của Trung đoàn 311 và
các lực lượng Khmer Issarak (Campuchia). Bộ đội Sivotha hoạt động chủ yếu ở Tây
Ninh và các tỉnh Đông Bắc Campuchia giáp biên giới Việt Nam như: Svay Rieng,
Prey Veng, Kampong Cham, Kratíe. Ban chỉ huy đơn vị gồm: Ngô Thất Sơn làm Chỉ
huy trưởng, Trần Văn Đẩu làm Chỉ huy phó, Trịnh Xuân Đức làm Chính trị viên.
Bộ đội
Sivotha ra đời là sự thay thế và kế tục nhiệm vụ của Bộ đội Hải ngoại 1. Rừng
Cây Cầy, xã Hòa Hội tiếp tục là hậu cứ vững chắc của đơn vị, đồng thời là nơi học
tập, huấn luyện của các đội võ trang công tác độc lập. Thành phần lực lượng của
Bộ đội Sivotha có khoảng 600 chiến sĩ là Việt kiều, Khmer Nam Bộ và người
Campuchia dưới sự chỉ huy của Ngô Thất Sơn nổi tiếng là lực lượng chiến đấu giỏi,
kỷ luật nghiêm, được đồng bào Tây Ninh và nhân dân Campuchia hết sức tin tưởng,
quý mến.
Bộ đội
Sivotha đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi
chung của quân dân ta tại chiến trường Nam Bộ và sự nghiệp kháng chiến chống
Pháp của toàn dân tộc, cũng như phong trào cách mạng của nước bạn Campuhia. Đặc
biệt, trên tuyến biên giới Tây Ninh, nhiều căn cứ kháng chiến liên hoàn được
xây dựng, tạo lá chắn an toàn phía sau lưng các căn cứ chiến lược của Tây Ninh
đã góp phần đáng kể cho Tây Ninh và miền Đông Nam Bộ trong suốt cuộc kháng chiến
chống Pháp và ảnh hưởng rất tích cực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.
Đó là công lao của đồng chí Ngô Thất Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha
đã đóng góp cùng với Đảng bộ và Nhân dân Tây Ninh.
Đối với
cách mạng Campuchia, Ngô Thất Sơn và Bộ đội Sivotha đã có công đào tạo nhiều
cán bộ trung cấp, cao cấp tài năng và trung thành, một số sau này đã trở thành
lãnh đạo cấp cao. Đó là sự giúp đỡ dựa trên quan điểm đoàn kết hữu nghị trong
sáng của hai đảng, hai dân tộc, hai quân đội, mà trong đó cá nhân đồng chí Ngô
Thất Sơn với tình cảm chân thành, thủy chung đã thực hiện quan điểm ấy một cách
chí tình, tốt đẹp nhất. Cũng chính vì thế mà Ngô Thất Sơn được nhân dân
Campuchia hết sức quý trọng, suy tôn đồng chí là Quan Năm “Sănk pram (đại tá)
Naisơn Sichăn”.
3. Ngày 2/6/1949, thực dân Pháp huy động lực lượng
lớn, có cả tàu chiến, mở trận càn vào cùng giải phóng Tây Ninh. Đang họp với Tỉnh
ủy Tây Ninh tại căn cứ Khăn Xiêng - Tà Éc thì hay tin Pháp đổ quân đánh vào căn
cứ Tà Nòn - Băng Dung, đồng chí Ngô Thất Sơn xin phép được vắng họp để trở về
chỉ huy chống càn. Trên đường về chẳng may đồng chí lọt vào vòng vây của địch,
trúng đạn bị thương rồi sa vào tay giặc.
Giặc Pháp
mừng rỡ vì bắt được một “cộng sản Việt Nam cỡ bự” lại có uy tín lớn đối với người
dân Campuchia nên tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ Ngô Thất Sơn cộng tác với
chúng, thậm chí đưa ra đề nghị sẽ để giành ghế Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia nếu
Ngô Thất Sơn chịu đầu hàng. Tuy nhiên, mọi cố gắng của chúng đều không thể khuất
phục được ý chí và sự trung thành tuyệt đối của Ngô Thất Sơn, thậm chí giặc
Pháp còn phải ngao ngán, nể phục trước sự gan góc và khí phách kiên cường của
Ngô Thất Sơn.
Tháng
9/1952, thực dân Pháp đưa Ngô Thất Sơn về khám Đức Hòa (Long An), giam chung với
bác sĩ Huỳnh Bá Nhung - Trưởng ty Y tế Gia Định. Chiều ngày 10/11/1952, giặc
Pháp đưa hai đồng chí Ngô Thất Sơn và Huỳnh Bá Nhung ra cánh đồng bên ngoài trại
giam rồi lén lút nổ súng thủ tiêu. Năm 1992, lãnh đạo tỉnh Tây Ninh và gia đình
tổ chức cải táng, đưa thi hài đồng chí Ngô Thất Sơn về nghĩa trang liệt sĩ Tp.
Hồ Chí Minh. Tháng 12/1994, liệt sĩ Ngô Thất Sơn được Chủ tịch nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau khi
Ngô Thất Sơn bị địch bắt, Quân khu 7 rút đồng chí Huỳnh Văn Vàng trở về làm Chỉ
huy trưởng Bộ đội Sivotha. Năm 1951, thực hiện chủ trương hợp nhất khu Đông Bắc
và Đông Nam Campuchia, các lực lượng của Bộ đội Sivotha được điều động để sắp xếp
thành những đơn vị mới của quân tình nguyện Việt Nam ở miền Đông Campuchia và bộ
máy của các tỉnh Kampong Cham, Svay Rieng, Pray Veng. Tháng 4/1951, việc sắp xếp
cơ bản hoàn tất, Bộ đội Sivotha khu Đông Bắc Campuchia không còn nữa.
4. Quá trình ra đời, chiến đấu và trưởng thành của
Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha là minh chứng hùng hồn cho tầm lòng “nồng
nàn yêu nước” của kiều bào ta ở nước ngoài, cụ thể là ở Thái Lan, Campuchia. Dù
bất cứ ở đâu, dù xa xôi Tổ quốc đến mấy vẫn tha thiết hướng về quê hương, sẵn
sàng xả thân vì vận mệnh của dân tộc.
Ký ức về
Anh hùng Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội
Sivotha đã gắn liền với trang sử oanh liệt của những năm đầu Nam Bộ kháng chiến
cực kỳ cam go, gian khổ, thiếu thốn; gắn liền với tình đoàn kết hữu nghị trong
sáng giữa Việt Nam - Campuchia. Ngô Thất Sơn và các cán bộ, chiến sĩ của đơn vị
đã hòa mình và góp phần vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc, trở thành một phần không thể tách rời, một nét độc đáo trong lịch sử xây dựng,
trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngô Thất
Sơn và Bộ đội Hải ngoại 1 - Bộ đội Sivotha đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử
quân đội ta, lịch sử quan hệ láng giềng đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia
và sẽ mãi là niềm tự hào được nhắc nhớ trên quê hương An Giang, quê hương Tây
Ninh và trong lòng nhân dân nước bạn Campuchia.
Đường Lập.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.171.
[2] Sau đổi thành Chiến khu Dương Minh
Châu.
[3] Sivotha là tên của vị Hoàng thân
Campuchia yêu nước - Angduong Sivotha
(1841 - 1891), người chỉ huy cuộc nổi dậy phản đối triều đình Norodom I ký hiệp
ước với thực dân Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn Vương quốc
Campuchia.
Subscribe to:
Posts (Atom)
Bài đăng nổi bật
HỌC TẬP VÀ NOI GƯƠNG BÁC TÔN LÀ VIỆC LÀM THIẾT THỰC TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH BÁC HỒ
Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân An Giang đang đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ, chúng ta càng nhớ đến Bác Tôn...
Bài đăng phổ biến
-
- Nguyên tác: Kim Dung. - Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng. TẬP 15
-
Tác giả: GS.TS Ngô Văn Lệ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng bằng sông Cửu Long là một đồng bằng lớ...
-
- Nguyên tác: Kim Dung. - Diễn viên chính: Cổ Thiên Lạc, Lý Nhược Đồng. TẬP 07
-
Lê Phương Thanh [*] Don Oberdoifer - một nhà báo người Mỹ đã gọi “trận chiến của mọi trận chiến của cuộc chiến tranh Đông Dương ...