Trích: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ | NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA | HÀ NỘI | 2015 | 366-372.
Tác giả: BOGATUROV ALEKSEY DEMOSFENOVICH & Dịch: ĐẶNG QUANG CHUNG.
Việc thống nhất Việt Nam diễn ra như thế nào? Vì sao tình
hình Đông Dương lại trở nên căng thẳng?
Thắng lợi trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ và chế độ cộng
hòa miền Nam Việt Nam đã tác động đến chính sách đối ngoại của Việt Nam, điều
này, chẳng bao lâu sau, đã dẫn đến những cuộc xung đột với các nước láng giềng.
Quan hệ Việt Nam-Campuchia chưa bao giờ là đơn giản. Người đứng đầu nhà nước
Campuchia, hoàng thân Norodom Sihanouk, đã khéo léo xử sự giữa tất cả các bên
trong xung đột Việt Nam. Trong nước, “Khmer đỏ” thổi bùng việc tuyên truyền chống
chính phủ- những người cộng sản Campuchia chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mao,
nhưng Norodom Sihanoulk không dám truy nã họ vì sợ làm phương hại đến quan hệ với
Trung Quốc. Đồng thời, ông cũng lo ngại cả hai chế độ ở Việt Nam (Cộng Sản và
chống Cộng) và cố gắng để không xảy ra đôi co với Washington.
Giới lãnh đạp Campuchia công phẫn trước sự khơi mào chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam năm 1965 nên đã quyết định trục xuất các công dâm Mỹ ra
khỏi đất nước. Nhưng vào thời ddieerm này, Trung Quốc bắt đầu tang cường viện
trợ cho Khmer đổ, còn Khmer đỏ lại tích cực hơn nữa trong việc chống chính phủ.
Lo sợ Cộng Sản làm đảo chính, năm 1967, Sihanouk cho rằng tốt nhất là nên bình
thường hóa quan hệ với Washington.
Nhưng Mỹ yêu cầu Campuchia phải có biện pháp triệt tiêu các
căn cứ mà Việt Nam thiết lập trên lãnh thổ Campuchia. Chính quyền Sihanouk quyết
địng không tham gia xung đột với Việt nam và chấp nhận sự hiện diện của Việt
Nam ở đất nước mình. Điều đó lý giải vì sao, tháng ba 1970, tại Phnom Penh đã nổ
ra cuộc đảo chính, và Sihanouk bị lật đổ. Mỹ vội vàng công nhận chính phủ mới,
đứng đầu là Lon Nol. Lon Nol ra lệnh đóng cửa biên giới với Việt Nam và yêu cầu
Hà Nội rút tất cả các đơn vị Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Campuchia. Lon Nol không
thể dung sức mạnh để thúc ép yêu cầu. Ở Campuchia bắt đầu xảy ra đụng độ vũ
trang giữa các lực lượng vũ trang Việt nam và Campuchia.
Cuối năm 1973, sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt
nam, sau những cuộc đàm phán bất thành giữa những người Cộng Sản và chính quyền
Việt nam Cộng Hòa về việc giải quyết nhưng yêu sách của cả hai bên, chiến tranh
vẫn tiếp tục. Mặc dù ưu thế vũ khí nghiên về phía Sài Gòn, nhưng chính quyền
không có sự hậu thuẫn trong xã hội. Không chỉ những Phật tử chống lại chính quyền,
mà cả những tín đồ Công Giáo vốn trước kia là chỗ dựa của chính quyền miền Nam
Việt Nam. Ngày 1 tháng Năm năm 1975, các lực lượng Cộng Sản miền Nam và miền Bắc
Việt Nam đã giải phóng Sài Gòn. Về hình thức, chính quyền ở miền nam được chuyển
giao cho “chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam”
Hai tuần trước đó, ngày 17 tháng Tư năm 1975, các lực lượng
thân trung Quốc của Khmer đỏ ở Campuchia đã lật đổ Lon Nol. Lãnh đạo nhà nước
lúc bấy giờ là Pol Pot. Tất cả các nhà ngoại giao của những nước đã công nhận
chế độ trước đây, kể cả Liên Xô, đều bị trục xuất khỏi Phnom Penh.
Việc miền Nam Việt Nam được giải phóng và việc thiết lập chế
độ cộng sản ở Campuchia đã phá vỡ thế quân bình bền vững trong chính phủ liên
hiệp của Lào. Tháng năm 1975, tại thủ đô Viên Chăn đã nổ ra những cuộc đấu
tranh quần chúng chống lại các phe phái bảo thủ trong chính ohur. Dưới áp lực cỉa
Pathết Lào, các bộ tr]rng bảo thủ đã bị loại ra khỏi nội các, và chính quyền đã
được cuyển giao cho các lực lượng cách mạng.
Nhưng vấn đề trầm trọng nhất trung quan hệ Trung -Việt là
tình hình Campuchia.
Do thấy trước những rạn nứt gia tang trong quan hệ với Cộng
Hóa Nhân Dân Trung Hoa, giới lãnh đạo Việt Nam đã có ý định cảnh báo trước
Trung Quốc. Tháng Chính 1975, Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản
Việt Nam Lê Duẩn sang thăm chính thức Bắc Kinh. Trong quá trình chuyến viếng
thăm, Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã có cuộc gặp với Mao Trạch Đông. Nhưng cuộc hội đàm
đã kết thúc không thành công khi được biết rằng, Hà Nội không sẵn sàng cùng với
Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa lên án đường lối của Liên Xô. Những kết quả trong
chuyến viếng thăm của Lê Duẩn tới Mátxcơva vào tháng Mười năm đó lại được xem như sự tương phản.
Đối với biể hiện tình đoàn kết Xô-Việt, trung Quốc ra tuyên
bố tháng mười một 1975 về những yêu sách đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Đáp
lại, phía Việt Nam cho công bố bản đồ, mà ở đó Hoàng Sa và trường Sa đã được
ghi nhận là một phần lãnh thổ Việt Nam.
Trong khi đó, hai miền Nam Bắc của Việt nam bắt đầu hội nghị
hiệp thương chuẩn bị điều kiện tiến tới thống nhất đất nước. Tháng Sáu 1976, Việt
Nam tiến hành bầu cử, ngày 12 tháng Sáu 19766, trên cơ sở nghị quyết của cơ
quan lập pháp mới được bầu chọn, miền Nam Việt Nam đã được thống nhất với miền Bắc.
Nhước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thống nhất đã được thành lập với thủ
đô là hà Nội.
Vấn đề Campuchia và xung đột Trung-Việt nảy sinh như thế
nào và vì sao?
Những cuộc chạm súng biên giới từ năm 1974 đến năm 1977 giữa
các lực lượng Campuchia và Việt Nam đã trở thành xung đột với việc sử dụng vũ
khí hạng nặng. Tháng Mười hai 1977, hai nước đã cắt đứt quan hệ ngoại giao.
Xung đột tiếp diễn và đe dọa trở thành một cuộc chiến tranh toàn diện.
Năm 1978, tình hình căng thẳng gia tăng với lí do Liên Xô
tang cường cung cấp kỹ thuật quân sự cho Việt nam, còn trung Quốc cung cấp cho
Campuchia. Tháng Bảy 1978, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam được kết nạp vào
khối SEV. Tháng Mười Một 1978, hiệp ước hòa bình và hữu nghị Xô-Việt đã được ký
kết, trong đó ghi nhận Liên Xô sẵn sàng
giúp đỡ Việt Nam trên cơ sở dài hạn. Một lần nữa, sự kiện này khiến
Trung Quốc nghi ngờ. Thêm vào đó là vấn đề người Hoa (gần một triệu người) bị
trục xuất khỏi Việt Nam với lý do là năm 1978, Việt nam tiến hành chiến dịch đấu
tranh với các phần tử tư bản chủ nghĩa (con buôn, tiểu thương), mà đại bộ phận
những người này là người Hoa.
Tháng Mười Hai 1978, Việt Nam tuyên tố thành lập “Mặt trận
thống nhất cứu quốc” ở nhiều vùng của Campuchia, nơi quân đội việt Nam đồn trú.
Tháng Một 1979, Phnom Penh bị bao vây – Thực chất là do các lực lượng vũ trang
Việt Nam tiến hành với sự tham gia của những kiều dân lưu vong campuchia ở Việt
Nam. Quyền lực của chính phủ thân Việt nam đã được thiết lập. Đất nước được
tuyên bố là Cộng Hòa Nhân dân Campuchia. Việc đưa quân của Việt Nam vào
Campuchia được Trung Quốc hiểu là có ý đồ loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc ở
Đông Nam Á và là bước chuẩn bị cho việc thành lập khối thân Liên Xô dưới sự
lãnh đạo của Việt Nam. Washingotn cũng lý giải các sự kiện tương tự như vậy.
..Sự hiện diện của quân đội Việt nam ở Campuchia đã biến thành vấn đề quốc tế
nghiêm trọng.
Tháng Một 1979, nhà lãnh đạo Trung Hoa Đặng Tiểu Bình có
chuyến viếng thăm chính thức nước Mỹ để tham gia vào nghi lễ chính thức thiết lập
quan hệ Trung-Mỹ. Theo các tài liệu ghi nhớ, trong quá trình các cuộc đàm đạo ở
Washington, Mỹ đã đưa ra cách hiểu cho Trung Quốc rằng một hành động quân sự thị
uy của Trung Quốc nhằm “trừng phạt” Việt Nam về việc Việt Nam đưa quân vào
Campuchia sẽ không là phương hại quan hệ Mỹ-Trung, nesu nó chỉ mang tính chất “phòng vệ”.
Ngày 17 tháng hai 1979, quân đội Trung Quốc tràn vào Việt
Nam, tiến thẳng vào thị xã Lạng Sơn. Việt Nam nộp đơn lên Liên Hiệp Quốc tố cáo
Trung Quốc xâm lược. Liên Xô tuyên bố ủng hộ Việt Nam, đồng thời cung cấp viện
trợ quân sự khẩn cấp. Trong suốt một tháng chiến tranh Trung-Việt (17/02 – 17/03/1979), Mỹ lãng tránh việc ủng
hộ Trung QUốc, chỉ tuyên bố một cách hình thức với lập trường trung lập: chính
quyền Mỹ yêu cầu rút toàn bộ quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và rút toàn bộ
quân đội Trung Quốc ra khỏi Việt Nam. Trên báo chí không có một đánh giá thống
nhát nào về lập trường này. Nhiều tác giả cho rằng, về bản chất vấn đề, Mỹ ủng
hộ Trung Quốc bằng cách gửi cảnh báo đến Liên Xô chống lại việc tấn công Trung
QUốc từ phương Bắc. Một số tác giả khác lại chỉ ra rằng, Washington đoạn tuyệt
với đường lối của Trung Quốc, vì Trung Quốc đã không trình bày đực việc tấn
coog vào lãnh thổ Việt Nam với tư các là biện pháp phòng vệ.
Sự hiện diện của quân đội Việt Nam đã không bảo đảm cho sự ổn
định tình hình ở Campuchia. Các khu vực dọc biên giới với Thái Lan vẫ nằm dưới
sự kiểm soát của Khmer đỏ và có khả năng thiết lập căn cứ trên lãnh thổ Thái
Lan dựa vào viện trợ của Trung Quốc. Thái Lan và trung Quốc đã hợp tác trong việc
tổ chức các lực lượng chống chính phủ ở Campuchia, mặc dù phần lớn các nước vừa
và nhỏ ở Đong Á lên án chính sách của Việt Nam trong vấn đề campuchia, nhưng đồng
thời cũng tỏ thái độ phản đối Khmer đỏ-là những kẻ phải chịu trách nhiệm vì
hàng triệu người là nạn nhân của nạn khủng bố chống “các phần tử tư bản chủ
nghĩa” ở Campuchia trong những năm tháng Khmer đỏ nắm chính quyền (1975-1978).
Ngoài Khmer đỏ, từ năm 1981, bên lãnh thổ Thái Lan còn có những
hoạt động vũ trang của các lực lượng cánh hữu của mặt trận dân tộc giải phóng
nhân dân Khmer do Son Sen đứng đầu, trong đó có những thành phần ủng hộ chế độ
đã bị lật đổ năm 1970 của Lol Nol. Nhóm cuối cùng là nhóm kháng chiến Campuchia
riêng rẽ do Norodom Sihanouk làm đại diện. Tuy nhiên, Norodom Sihanouk chỉ làm
các động tác chính trị chứ không có hành động quân sự chống lại chính phủ ở
Phnom Penh. Dựa vào sự ủng hộ của các nước ASEAN, tháng Sáu 1982, Sihanouk
thành lập chính phủ liên hiệp của nước Campuchia dân chủ ở Kular Lumpur dưới
quyền lãnh đạo của ông và có sự tham gia của các đại diện nhóm Son Sen và Khmer
đỏ. Kể từ thời điểm đó, ở Campuchia đã diễn ra cuộc đấu tranh chống chính phủ
dưới ngọn cờ liên hiệp với sự giúp đỡ của trung Quốc, Thái lan và Mỹ.
No comments:
Post a Comment